TRAN XUAN AN - PCDT NGUYEN VAN TUONG (tap III B)

Sunday, December 18, 2005

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập III B 10)

Tệp 10 – Tập III Blog B
(PHÂN ĐOẠN 4 TRUYỆN KÍ THỨ 10)


TRẦN XUÂN AN

BI KỊCH Ở ĐỈNH ĐIỂM MÂU THUẪN
VÀ SỰ CHIẾN THẮNG
CỦA NHÓM CHỦ CHIẾN YÊU NƯỚC TẠI TRIỀU ĐÌNH


Truyện kí thứ mười
(phân đoạn 4)

9

Trong bốn tháng vừa qua, nhất là sau khi thành Trấn Hải và các thành luỹ, đồn trại hải phòng tại Thuận An bị thất thủ, phải nhục nhã kí kết “hoà” ước Quý mùi 1883 với bọn thực dân Pháp thắng trận, vua Hiệp Hoà bộc lộ rõ bản chất đầu hàng, vun quén cá nhân, còn cánh chủ “hoà” trong triều đình, hoàng tộc lại tăng lên. Vì thế, ít nhiều nhóm chủ chiến bị lép vế, yếu thế.
Đại thần Tôn Thất Thuyết không cách nào khác, phải tự ý buộc Trần Tiễn Thành thôi việc. Từ đầu tháng bảy nguyệt lịch, Trần Tiễn Thành “xin” khỏi vào chầu khi thiết triều. Sau đó, lúc biết tin Pháp sắp tấn công Thuận An, ông ta cố lấy lại uy thế, có tham gia vài cuộc họp. Đến cuối tháng tám, ông ta bị buộc phải nghỉ việc hoàn toàn, về hẳn tại nhà riêng ở ấp Doanh Thị trung bên kia cầu Gia Hội (Huế). Thượng thư Tôn Thất Thuyết không muốn Trần Tiễn Thành tiếp tục chi phối vua Hiệp Hoà như đã chi phối vua Tự Đức, mặc dù vua Tự Đức không dễ bị chi phối như Hiệp Hoà. Trước sức ép của Tôn Thất Thuyết và bên cạnh Tôn Thất Thuyết còn có sự ủng hộ mạnh mẽ của thượng thư Nguyễn Văn Tường cùng một số các quan chủ chiến khác, vua Hiệp Hoà cũng đồng ý cho Trần Tiễn Thành bãi chức, về hưu.
“Phụ chính đại thần là Trần Tiễn Thành vì tật cũ lại phát ra, hai chân đau buốt khó đi. Tháng trước [tháng bảy nguyệt lịch], [ông ấy] đã xin miễn cho không phải vào chầu, [chỉ] lưu ở công đường làm việc. Đến bấy giờ [cuối tháng tám nguyệt lịch] lại xin nghỉ việc Cơ mật, về ở nhà trọ [:bệnh xá] để chữa bệnh. Vua cho nghỉ việc” (105) .
Thật ra, từ những ngày trước hạ tuần tháng tám Quý mùi (1883), trước khi đoàn khâm sai ra Bắc Kì, Trần Tiễn Thành rất nhiều đêm đến dinh thự của tham tri Bộ Lại Hồng Phì (phó khâm sai, con trai Tùng Thiện vương Miên Thẩm), cùng Hồng Tu, Hồng Sâm (con trai Tuy Lý vương Miên Trinh), để bàn mưu tính kế nham hiểm (106), nham hiểm chỉ vì quyền lợi cá nhân, bè cánh chủ “hoà” vị kỉ, mặc kệ vận mệnh nhân dân, Đất nước và mặc thây cả danh dự triều Nguyễn, triều đại mà họ đang được hưởng ân sủng hoàng tộc hoặc đang phục vụ, phụng sự (106).
Tuy Lý vương Miên Trinh cũng là một trong những kẻ chủ “hoà”. Ông ta đồng mưu với những kẻ nham hiểm vị kỉ kia, cố sức câu kết với thực dân Pháp, thông qua tên khâm sứ De Champeaux. Trước hết, Tuy Lý vương giả vờ đến Sứ quán xin thuốc chữa bệnh! Xin thuốc kẻ thù xâm lược để chữa bệnh cũng là một điều lạ, chưa từng thấy! Bày tỏ thiện chí và sự tin tưởng ư? Hay là thuốc gì vậy?
“Tuy Lý vương Miên Trinh đến Sứ quán [Pháp] xin thuốc chữa bệnh, quan Cơ mật viện và Thương bạc [:chỉ gồm Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] đem việc tâu lên. Vua cho triệu Miên Trinh vào Nhà Duyệt thị, truyền chỉ bảo rằng: “Sở ấy [:Sứ quán ấy], không nên đi lại luôn luôn”. Vua lại phê bảo quan Viện Cơ mật: “Thân vương ấy tuổi cao, đức tốt, lại có học thức, thực là người yêu nước trung thành, tưởng không ngại gì. Trẫm đã hỏi, về sau có việc gì bàn bạc hay hỏi thăm viên [khâm] sứ ấy thì sai cùng đi với đình thần [để] cùng đến Sứ quán [Pháp], có được không? Vương [Tuy Lý] đã bằng lòng. Chuẩn cho về sau có hỏi thăm hay bàn bạc khoản gì, chuẩn cho thân vương ấy cùng đi với đình thần”” (107) .
Không những tuổi cao, lại có học thức, Tuy Lý vương Miên Trinh còn là một trong hai nhà thơ nổi tiếng của hoàng tộc và kinh đô Huế. Nhưng người chú ruột của vua Tự Đức này lại được Hiệp Hoà bảo là “yêu nước trung thành”, hẳn đó là lòng yêu nước trung thành theo quan niệm của cánh chủ “hoà”, đầu hàng, thoả hiệp, thật ra đang câu kết với kẻ thù là thực dân đang xâm lược Đất nước, bọn thực dân những muốn xô đổ hoặc chí ít cũng tròng cho được ách “bảo hộ” lên triều Nguyễn! Chưa bao giờ có một loại tình cảm “yêu nước trung thành” kì quặc, ngược đời như vậy!
Hai đại thần Viện – Bạc Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết biết rất rõ âm mưu câu kết phản dân, hại nước, âm mưu hành động một cách nham hiểm đối với nhóm chủ chiến ấy. Và đồng thời, họ biết rõ vua Hiệp Hoà đang cùng Tuy Lý vương bước đầu thực hiện điều khoản thứ XI, điều khoản nhục nhã nhất của “hoà” ước Quý mùi 1883, “Trú sứ [:khâm sứ, résident] Pháp tại Huế sẽ được quyền một mình vào diện kiến vua nước [Đại] Nam; nhà vua không thể từ chối không tiếp, nếu không có lí do chính đáng” (68) :
“Sứ Pháp cho mời Tuy Lý vương Miên Trinh đến Sứ quán. Vua nhân thể sai đem các việc ở quân thứ về Sơn Tây thương thuyết.
Lúc bấy giờ sứ Pháp đưa thư đến, yêu cầu ta [triệt] bỏ các quan quân thứ ở Sơn Tây [Hoàng Tá Viêm…], Bắc Ninh [Trương Quang Đản, Bùi Ân Niên…], cho nên vua sai đi thương thuyết bỏ việc ấy đi [vì sợ quan chức và sĩ dân cả nước phẫn nộ; vả lại, đó không phải là vấn đề then chốt…]. Sứ Pháp nhân [dịp ấy], xin vào chầu vua.
Tuy Lý vương đem việc tâu lên. Vua lại sai Tuy Lý vương đi bàn định về nghi lễ triều yết; lại sai tham tri Bộ Lễ là Nguyễn Văn Thuý, tham tri Bộ Binh là Hà Văn Quan, tham biện Nội các là Hoàng Hữu Thường cùng sung làm tiếp hộ sứ.
Rồi sau sứ Pháp vào yết kiến vua ở Điện Văn minh, cất mũ vái một cái. Vua hỏi han, yên ủi (hỏi thăm sức khoẻ của giám quốc [:tổng thống toàn quốc] nước Pháp và yên ủi viên sứ ấy)” (108)
.
Sự thật của việc câu kết, chầu yết ấy không thể là gì khác ngoài việc mưu hại nhóm chủ chiến tại triều đình, và bàn định việc thoả hiệp triệt để giữa vua tôi chủ “hòa” với kẻ thù xâm lược. De Champeaux trước đây đã từng toan tính âm mưu “đập tan tành” thượng thư Bộ Hộ, đại thần Viện – Bạc Nguyễn Văn Tường. Nay bên cạnh ông còn có đại thần Tôn Thất Thuyết, nên hơn bao giờ hết, De Champeaux quyết hạ bệ và hạ sát cả hai đại thần đứng đầu nhóm chủ chiến và đứng đầu đại bộ phận nhân dân quyết tâm chống Pháp trong cả nước. Vấn đề then chốt và chủ chốt là ở hai đại thần phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết chứ không phải là ở các quan tướng trên mặt trận như Hoàng Tá Viêm, Trương Quang Đản, Bùi Ân Niên… Do đó, De Champeaux nhiệt thành một cách man rợ trong sự câu kết mà Tuy Lý vương là con thoi qua lại! De Champeaux liền báo cáo ra Bắc Kì cho Harmand, báo cáo vào Gia Định cho Thomson.
“Theo một điện tín của thống đốc Nam Kì gửi bộ trưởng Hải quân ngày 10 tháng 12 năm 1883, Hiệp Hoà bày tỏ trong mọi lúc cảm tình của ông ta đối với Pháp. Ông đã bí mật phái chú là Tuy Lý vương đến Toà Sứ Pháp để hỏi De Champeaux là, nếu trong trường hợp có biến động, ông có được Pháp giúp đỡ không? De Champeaux trả lời có, và nhiệt thành khuyến khích ông chống lại cận thần. Cuộc viếng thăm này làm triều đình lo ngại, họ làm đủ mọi cách để biết nội dung câu chuyện nhưng vô ích” (109) .
Bức điện tín ấy được đánh đi trong thời điểm mười một hôm sau cuộc đảo chính tại triều đình, vào ngày mười một tháng mười một nguyệt lịch Quý mùi (1883).
Mâu thuẫn giữa chủ “hoà” với chủ chiến, thực chất là giữa bọn xâm lược, bọn tay sai với những người yêu nước, chống Pháp, chống bù nhìn, đã bị đẩy lên đến điểm đỉnh. Không thể không nổ ra cuộc đảo chính. Dẫu sao, cuộc đảo chính ấy ít nhiều vẫn phải đẫm máu và đẫm thuốc độc thi hành án!

“TÔN THẤT THUYẾT LẬP PHẤN NGHĨA QUÂN” (110):

“Lúc đó, [Tôn Thất] Thuyết muốn lập lính chân tay [:thủ túc chi binh] riêng mình, bèn thương lượng với Nguyễn Văn Tường, nói rằng:
“Tiến hành vào ngày 29 tháng 10 là quan trọng nhất [đó là ngày nhóm chủ chiến triều đình Huế tiến hành cuộc đảo chính lật đổ Hiệp Hòa cùng những kẻ đồng mưu, câu kết với giặc Pháp]”.
Hai viên quan này [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] cùng với những đình thần đã dự biết trước nên ai nấy giao cho những người thân thuộc tham dự vào việc hiểu dụ các thân hào sĩ dân kết đảng làm theo. Lần này, qua chọn lọc số người trong đó mà ban thưởng. Ngoài ra tuy [nhiều người] chưa được dự vào phái cử, nhưng đều vui lòng đáp ứng.
Gần đây [tháng chạp Quý mùi (1883)], nhiều người làm theo, nay các binh ngạch thiếu nhiều, nên nhân tình hình ấy mà thu dụng họ, xin hội đồng Binh bộ xét tuyển dụng được bao nhiêu lính (nhưng không được khấu giản), chia làm vệ đội, lượng mà thiết lập quản suất, tùy số mộ được nhiều hay ít mà thưởng phẩm hàm, đặt tên là “Phấn Nghĩa quân”. Số quân đó được khao thưởng và đặt tên riêng; chiểu theo thứ tự, tuyển hai vệ tiên phong, nhưng vẫn lệ thuộc vào các viên quan mà hai vị thần đó [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] ủy nhiệm cho, để luyện tập và phân phái.
Theo thời kì này thì hữu dụng, nên ([Nguyễn Văn] Tường) cho phép.
Sau đó [Tôn Thất] Thuyết cho Trần Xuân Soạn lãnh [nhiệm] số quân ấy” (110).

“NGÀY ĐINH SỬU, NGUYỄN VĂN TƯỜNG, TÔN THẤT THUYẾT PHẾ VUA VÀ GIẾT ĐI, VÀ GIẾT CẢ ĐẠI THẦN TRẦN TIỄN THÀNH; LẬP HOÀNG TỬ THỨ BA LÊN LÀM VUA” (111):

“Trước đây, phế đế [:vua Hiệp Hoà] đã nối ngôi, [hai đại thần Nguyễn Văn] Tường, [Tôn Thất] Thuyết cậy công tôn lập lên, việc gì cũng chuyên quyền làm bậy [chủ chiến là làm bậy ư?!?]. Vua ghét hai người ấy, muốn tước bớt quyền đi. Cho nên ngoài mặt vẫn hậu đãi, mà trong ức chế [:đè nén, áp chế] cũng nhiều, (như việc đổi [Tôn Thất] Thuyết sang Bộ Lại, không cho giữ binh quyền; lại tờ tâu của sáu bộ, đều giao cho Nội các duyệt tâu, không chuyên giao cho hai người ấy). Gặp khi những người thân tín của vua là tham tri Bộ Lại Hồng Phì, tham biẹân Nội các Hồng Sâm mật mưu việc ấy [:việc giết hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết], Tuy Lý vương Miên Trinh, huyện công Hồng Tu đều có dự mưu (Hồng Tu, Hồng Sâm đều là con Tuy Lý vương). [Hai đại thần Nguyễn Văn] Tường, [Tôn Thất] Thuyết đã biết việc ấy. Vua lại muốn dùng mẹo để hai người giết nhau. Triệu [Nguyễn] Văn Tường vào nói chuyện, thì [vua Hiệp Hoà] bảo [Nguyễn] Văn Tường là người trung thành, vẫn rất tin cậy; còn [Tôn Thất] Thuyết rất là ngang ngược, dặn [Nguyễn] Văn Tường tìm cách [giết] bỏ [Tôn Thất] Thuyết đi. [Tôn Thất] Thuyết vào hầu, vua cũng nói thế.
Hai người lại ra, đều đem lời nói ấy mật bảo nhau. Nhân [thế, hai đại thần càng phải quyết tâm] mưu việc [truất] bỏ vua [Hiệp Hoà] mà lập vua khác.
[Tôn Thất] Thuyết bèn lấy cớ là Thuận An sau khi thất thủ, phủ hạt Thừa Thiên nên tự tìm cách bảo vệ gia hương, [ông sai] phát hổ phù ra, [hổ phù là tín hiệu để trưng triệu quân lính], [bí] mật sai mộ nhiều hương dũng để phòng sai khiến. (Nhưng [đại thần Tôn Thất Thuyết đặc biệt] sai người thân tín là Kỳ Nội hầu Hồng Chuyên, phò mã Đặng Huy Cát, [cùng] chia nhau cai quản). Người ngoài chưa ai biết cả.
Gần đây phái viên nước Pháp [De Champeaux] nhân hoà nghị đến xin chầu yết, hai người [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] kiếm cớ tránh mặt, không dự việc ấy. Vua lại đặc cách sai Tuy Lý vương chuyên đi lại Sứ quán bàn bạc. Hai người [:hai đại thần phụ chính] ngờ vua đem mưu ấy dặn Tuy Lý vương cầu cứu với người Pháp.
Bèn vào ngày bính tí là ngày hai mươi chín (29) tháng ấy, lúc canh hai [khoảng từ 19 – 21 giờ khuya], các cửa hoàng thành, kinh thành đã đóng kín, [đại thần Tôn Thất] Thuyết thu hết cả chìa khoá cửa. Bèn trước nói dối là, đêm ấy, nghe nói ngoài thành có bọn bậy bạ họp kẻ dị dạng [:bọn ăn mặc khác thường], [nên] xin tự kiểm biền binh, [bí] mật phòng bị sẵn. [Ông] biên ra, giao cho quan trực hầu tâu lên. Rồi ngoài thì [đại thần Tôn Thất Thuyết ra lệnh] phát ra hổ phù, sai họp tất cả [quân] mộ dũng ở bờ phía nam sông Hương; trong thì [ông cho] đòi gọi các quân [chủ lực] đều mang khí giới, do các viên Ông Ích Khiêm, Trương Văn Đễ đi trước, dẫn đến đóng ở Sở Tịch điền. [Đồng thời, hai đại thần] cho mời văn võ đình thần, người nào hiện ở ngoài hoàng thành cũng đến công đường Bộ Hộ (chỗ [thượng thư Nguyễn] Văn Tường ở).
Hai người [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] bảo rằng:
“Lãng quốc công [:Hiệp Hoà] nối ngôi đến nay, làm việc phần nhiều trái phép cũ, lại gần gũi người bậy (ngầm chỉ bọn Hồng Phì, Hồng Sâm, Hồng Tu), người đều không phục. Nay nên xin bỏ đi, đón hoàng tử thứ ba [Ưng Đăng] lên nối nghiệp lớn”.
Lúc bấy giờ các quan đều vốn sợ uy lệnh của hai người ấy [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết], không ai dám nói điều gì khác. Hai người bèn một mặt dự làm tờ tâu, một mặt đem văn võ đình thần chuyển đến Sở Tịch điền, (duy có thượng thư Bộ Công là Đoàn Văn Hội cáo ốm không đến). [Hai đại thần phụ chính lại] sai đem tờ tâu lấy chữ các quan kí tên.
Lúc bấy giờ đã trống canh tư [khoảng từ 01 – 03 giờ khuya về sáng].
[Hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] bèn sai Hậu quân là Nguyễn Hanh, thị lang Bộ Binh là Lê Đại, trích phái biền binh đi đến nhà Dưỡng Thiện ở Khiêm lăng [:lăng vua Tự Đức].
(Hoàng tử thứ ba [Ưng Đăng] nguyên ở Dưỡng Thiện đường, ở bên hữu nhà Duyệt Thị gần đấy [gần Sở Tịch điền]; [trước đây, khi] rước linh cữu tiên đế [Tự Đức, lên] để ở Điện Hòa khiêm tại Khiêm cung, hoàng tử thứ ba theo [lên,] đến ở nhà quan xá ngoài cửa Vụ Khiêm [để cư tang]; nhân thể cũng gọi [nhà quan xá ấy] là Dưỡng Thiện đường).
[Nguyễn Hanh và Lê Đại cùng biền binh lên đến đó để] đón hoàng tử thứ ba. Lúc mờ sáng, [đoàn đón rước mới] về đỗ [kiệu, võng lọng] ở Điện Quan canh Sở Tịch điền. Hai người [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] cùng các quan ở Sở ấy đều lần lượt lạy mừng.
(Khi ấy bọn [Nguyễn] Hanh mới đến đón, hoàng tử thứ ba rất sợ hãi; bọn [Nguyễn] Hanh ôm lên võng rước đi.
Đến khi về đến nơi, hai người [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] nói với hoàng tử thứ ba là xin lập lên làm vua.
Hoàng tử thứ ba nói rằng:
“Ta còn bé, sợ không làm nổi”.
Hai người [:hai đại thần phụ chính] nói rằng:
“Tiên đế đã có ý ấy, nhưng chưa kịp làm. Nay là mệnh trời vậy. Xin nghĩ đến tôn miếu, xã tắc là quan trọng”).
Đến sáng rõ, (tức ngày đinh sửu là ngày ba mươi [30] tháng mười [10]), hai người [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] thông báo cho các quan hiện túc trực đêm ấy ở trong Nội (văn trực thần là tham tri Hà Văn Quan, võ trực thần là quyền chưởng doanh Hùng Nhuệ Trần Văn Cư, tham biện Viện Cơ mật là Hồ Lệ, tham biện Nội các là Lê Duy Thụy, thị vệ sứ đại thần là Tiền quân Tôn Thất Thạ). [Họ] đều đến họp. (Lúc bấy giờ Đoàn Văn Hội cùng đến).
Khi đồng hồ 5, 6 chuyển, vua [Hiệp Hoà] mới biết là có sự biến. [Hiệp Hoà] hỏi đến những người trực thần, thì chỉ có vài người [thuộc hạ nội] cung, thái giám. [Vua Hiệp Hoà cảm thấy] vội vàng thất thố, không biết làm thế nào, chỉ phải dự phê tờ chiếu nhường ngôi, để đợi.
Đến giờ mùi [13 – 15 giờ chiều], hai người [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] đón hoàng tử thứ ba vào Viện Cơ mật tạm nghỉ; và đem tờ tâu bỏ vua cũ, lập vua mới, tâu lên Từ Dụ thái hoàng thái hậu, lấy ý chỉ để thi hành. [Hai đại thần phụ chính] lại sai mở cửa mạn tây nam (ngày hôm ấy cửa bốn mặt kinh thành đóng kín cả ngày); [đồng thời] cho gọi các hoàng thân. [Hoàng thân] cũng lục tục vào Tả vu. Đến nơi thì ai cũng im lặng, chỉ trông nhau mà thôi.
(Duy Tuy Lý vương, Hồng Tu, Hồng Sâm ở ngoài, nghe biết tin, sợ bị vạ lây, bèn đem gia quyến đến chỗ phái viên Pháp đóng ở Thuận An cầu cứu. Hoằng Hoá công Miên Triẹân, Hải Ninh quận công Miên Tằng cũng sợ hãi đi mất. Sau đấy vài ngày, Hồng Phì đi công sai ngoài Bắc về, đến đầu địa giới Quảng Trị, nghe biết tin, tự cho là nguy, lập tức thuê thuyền đến hội với Tuy Lý vương [tại tàu binh Pháp ở cửa Thuận An]. Sau vì phái viên Pháp giao trả về, [Hồng Phì] cùng với Hồng Tu, Hồng Sâm, đều bị nạn).
Lúc bấy giờ, vua [Hiệp Hoà] sai thái giám là Trần Đạt đem tờ chiếu nhường ngôi, yêu cầu lui về chỗ phủ cũ. Hai người [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] giả cách nhận lời, sai Tôn Thất Thạ đem võng đưa vua cùng phi tần nội cung cho về phủ cũ (ở địa phận xã Phú Xuân), nhưng mật dặn riêng [Ông] Ích Khiêm, [Trương] Văn Đễ trực [:chực] trước ở ngoài cửa Hiển Nhân, đón đường, [rồi] sai đưa [vua Hiệp Hoà] đến nhà Hộ thành, cho uống thuốc độc giết đi.
(Hộ thành nha, nguyên trước là Dục Đức đường, mới đổi tên. Lúc bấy giờ, những phi tần đã cho về [phủ cũ] trước, [và] để hộ vệ đưa vua [về Nha Hộ thành]. Khi [đưa phế đế Hiệp Hoà] đến đấy, [Ông] Ích Khiêm, [Trương] Văn Đễ cho thuốc độc vào nước chè, dâng lên. Vua [Hiệp Hoà] không chịu uống.
[Trương] Văn Đễ ra lạy, khóc, khuyên rằng:
“Vua tôi đến lúc biến, không thể làm thế nào được”.
Vua nói rằng:
“Ta lại không được bằng Thụy quốc công à?”[Ý nói: Xin được xử như Ưng Chân (Dục Đức)].
[Vua Hiệp Hoà] còn lần chần không uống. [Ông] Ích Khiêm bèn đem nước chè ấy đổ vào miệng vua. [Vua Hiệp Hoà] lập tức phát lên như người phải gió.
Một lúc lâu, Trần Xuân Soạn ra truyền nói rằng:
“Nếu để chậm quá, sẽ phải tội nặng”.
[Phó đề đốc kinh thành Trần Xuân Soạn] lập tức lấy tay bóp họng [Hiệp Hoà]. Vua lè lưỡi, lồi mắt ra, rồi vua mới chết. Đến lúc đưa vua về phủ, thấy chỗ cổ họng vua [Hiệp Hoà] sưng như cái cung giương lên, ai cũng lấy làm lạ).
[Ông] Ích Khiêm, [Trương] Văn Đễ vào bảo rằng:
“Lãng quốc công đến đấy đã uống thuốc độc chết rồi”.
Hai người [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] bèn rước hoàng tử thứ ba vào ở Điện Hoàng phúc, đợi sẽ chọn ngày tốt, tôn lên làm vua” (111).
Còn về Trần Tiễn Thành?
“Trần Tiễn Thành cùng hai người ấy [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] vẫn không bằng lòng nhau. Trước đây, vì việc tuyên chiếu [Trần Tiễn Thành mắc tội “truyền tả chế thư sai lầm”], đã bị hai người [:hai đồng phụ chính] tham hặc, diếc móc [:nhiếc móc], [nên ông ta] giận không quên được. Bọn Hồng Phì mật tâu xin bỏ cường thần, [Trần] Tiễn Thành cũng có đi lại mật với nhau. ([Trần] Tiễn Thành đêm thường ngầm đến dinh thự Hồng Phì bàn kín với nhau). Hai người đã biết. Cho nên việc [Trần] Tiễn Thành cáo ốm, xin về nhà riêng, đều do hai người [:hai đồng phụ chính] bắt buộc (106).
Đêm hôm trước họp nhau ở Sở Tịch điền, hai người [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] cùng có đem bản thảo tờ tâu đến [để trình bày tỏ] tường với [Trần] Tiễn Thành, yêu cầu [ông ta] phải theo làm việc ấy. [Trần] Tiễn Thành lại khước từ, nói rằng:
“Bỏ vua nọ lập vua kia, sao có thể làm mãi? Tôi đã bãi chức về nhà, không dám dự việc ấy”.
Hai người [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] lại càng ngờ mà ghét. Nhân thể đêm ấy, [hai đại thần đồng phụ chính] cũng sai người đến giết [Trần] Tiễn Thành ở nhà riêng (nhà ở ấp Doanh Thị trung) (106).
Ngày hôm sau (tức là mồng một [1] tháng mười một [11]), hai người tâu xin chôn vua [Hiệp Hoà] bằng lễ nghi quốc công, giao cho phủ Tôn nhân chiểu lệ chôn cất.
Còn [Trần] Tiễn Thành thì do phủ Thừa Thiên khám biên cho là bị kẻ cướp giết chết. Đến lúc việc phát ra, ai cũng biết là do hai người ấy [:hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] sai người giết, mà chả ai dám nói ra” (106).

CHI TIẾT VỀ CÁI CHẾT CỦA TRẦN TIỄN THÀNH (112):

“… Trần Tiễn Thành ra lệnh cho gia đình lập tức về quê. Ông chỉ ở lại với một người thiếp, bà thiếp thứ tư tên là Lê Thị Như, và vài tên gia nhân, để chờ sự việc xảy ra.
Sau khi giết Hiệp Hoà, ngay đêm hôm đó, Tôn Thất Thuyết ra lệnh cho một toán quân trong đội cận vệ riêng của ông, đi giết Trần Tiễn Thành và Tuy Lý vương. Đó là một đêm cuối tháng, trời tối đen như mực. Cũng như các đường phố khác lúc bấy giờ, đường phố Chợ Dinh không có đèn đường. Quân Phấn Nghĩa cầm gươm giáo, do Hường Hàn [:Hồng Hàn, con trai của Miên Dần], Hường Chức và Hường Tế (cả ba đều trong hoàng tộc và là cháu nội Minh Mạng) chỉ huy. Họ đến trước nhà quan đệ nhất phụ chính vào khoảng canh ba (quá nửa đêm). Đó là một căn nhà như những ngôi nhà đến nay ta vẫn còn thấy trên đường Gia Hội. Nó gồm một căn nhà trệt ba gian nằm ngoài mặt đường, trước đây có lẽ đã dùng làm cửa hàng. Gian giữa có cửa hai cánh, mỗi cánh xây trên [:gắn vào] một loại trụ trát vữa. Một hàng hiên bên cánh trái sân nối liền căn nhà ấy với một căn nhà tầng kiến trúc xoàng xĩnh. Quân Phấn Nghĩa đứng trước nhà và ngoài đường, khoảng mười tên [:viên] đến đập cửa đùng đùng bằng chuôi vũ khí của họ. Sự ồn ào làm cả khu phố tỉnh giấc, mấy hàng xóm tưởng là quân cướp. Có người còn mở cửa để thét bảo bọn [:đoàn] người ngỡ là trộm cướp ấy rằng, đấy là nhà quan đệ nhất phụ chính, họ chớ dại mà đụng vào. Nhưng quan phụ chính đang nghỉ trên tầng gác căn nhà bên trong thì không nhầm lẫn. Gia nhân không dám mở cửa, và trong phút chốc, bọn lính đã phá cửa, vì chỉ cần dùng lưỡi kiếm ẩy lên là cửa mở toang. Vài tên [:viên] lính xông vào nhà, đèn trong nhà leo lét, đi đầu bọn lính là một người trong tay chiếc tráp đỏ thường dùng để đựng sớ tấu. Bọn [:nhóm] chỉ huy hét lên là hội đồng phụ chính mời đại nhân xuống có việc khẩn cấp. Vị lão thần khoác chiếc áo đen do người thiếp yêu trao cho và bước xuống, bà thiếp đỡ bên trái. Đến giữa cầu thang, khi tay phải ông còn giơ lên để chỉ cài cúc áo, nhiều tên [:viên] lính xông vào đâm ông bằng giáo. Người thiếp có phản ứng đáng khâm phục là lao về phía trước, cố gắng bảo vệ cho “phu quân và phu tướng” của mình bằng cánh tay mảnh mai và vì vậy, bị thương ở tay phải. Nhưng vị lão thần đã gục xuống thở hắt ra trong tay người thiếp của ông mà ông đã cố tình giữ lại bên mình để bà có mặt trong những giây phút cuối đời.
Bọn hung thủ [:những người nghĩa phẫn] rút lui để sang làm nhiệm vụ tàn khốc [:xử tội] của họ ở nhà Tuy Lý vương. Nhưng trong số thủ lĩnh của bọn chúng [:họ] cũng có người còn ái ngại, muốn cứu vị hoàng thân dù sao cũng là chú ruột y, nên trùng trình làm cả bọn [:đội] bị trễ. Khi chúng [:họ] đến nơi, trời đã gần sáng. Vả lại, Tuy Lý vương đã trốn trước và đi lánh nạn ở Thuận An [trên tàu binh La Vipère do tên thực dân viễn chinh Picard Destelan làm thuyền trưởng], như ta đã biết” (112)
.
Đến tháng mười hai nguyệt lịch Quý mùi (đầu năm 1884), cái chết của Trần Tiễn Thành vẫn được xác định: “Đêm ba mươi tháng mười năm [nay], trước [đây], bị cướp giết chết”! “Lại giáng Cần chính điện đại học sĩ [quá] cố là Trần Tiễn Thành làm Binh bộ thượng thư”, “giáng xuống hàm ấy và chiểu theo hàm mới mà cấp tuất” (113) .
Hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết cùng nhóm chủ chiến tại triều đình đã thừa lòng dũng cảm, sự quyết đoán, táo bạo để truất phế vua Dục Đức, thi hành án vua Hiệp Hoà theo lệ “tam ban triều điển” , thì còn ngại gì không thừa nhận việc xử tội Trần Tiễn Thành, kẻ đã chủ mưu cùng đồng bọn giết để họ, nhằm mục đích thoả hiệp với Pháp, làm tay sai cho bọn xâm lược ấy! Rõ ràng, không nghi ngờ gì nữa, “bọn Hồng Phì mật tâu xin bỏ cường thần, [Trần] Tiễn Thành cũng có đi lại mật với nhau. ([Trần] Tiễn Thành đêm thường ngầm đến dinh thự Hồng Phì bàn kín với nhau)” (106). Việc gì không thừa nhận? Thượng thư Nguyễn Văn Tường cảm thấy có một nỗi băn khoăn nào đó về chút ân nghĩa cũ trong việc tiến cử của Trần Tiễn Thành trước đây, mặc dù việc tiến cử ấy là nghĩa vụ, trách nhiệm, theo sắc dụ thể hiện phương châm “tiến cử được người hiền, sẽ được thưởng hậu; che giấu người hiền, sẽ bị giết” ? Chỉ một mình Tôn Thất Thuyết ra lệnh hạ sát Trần Tiễn Thành? Hay chính Hồng Hàn, Hồng Chức, Hồng Tế đã tự động, không thừa lệnh ai hết? Những thủ lĩnh hoàng tộc thế hệ Hồng ấy đã tự giác, tự nguyện thực thi bản án tử hình Trần Tiễn Thành mà trước đó mười chín năm, nhóm Hồng Tập đã tuyên án!
Hơn một tháng sau, vào hạ tuần tháng mười một Quý mùi (1883), vụ án Hiệp Hoà và những kẻ đồng mưu vẫn được tiếp tục xét xử, theo tinh thần “luật pháp bất vị thân” vốn đã thành truyền thống tốt của triều Nguyễn:
“Đến lúc đó bèn tra xét, tam vương công [Tuy Lí, Hoằng Hoá, Hải Ninh…] xưng là nghe nhầm Hồng Tham [:Sâm], Hồng Tu (đều là con Tuy Lý vương) dẫn đến cuồng vọng… […]… [nên từ nay ba vương, công ấy] không được tham dự triều chính và giao thiệp với người [nước] ngoài. Hồng Tham, Hồng Tu, Hồng Phì phải tội chém… […] … Sau đó, phân đặt tam công ở các tỉnh ([…] Quảng Ngãi, […] Bình Định, […]Phú Yên). Con cháu chư công cũng đi theo […]. Hai con của phế đế là Ưng Hiệp, Ưng Bác cùng thị vệ là Nguyễn Duy Thiện (cháu [bên] ngoại phế đế) nên ban rằng không nên giao giam như bình thường. Thời gian sau, phát về Sơn phòng Quảng Trị thúc khẩn” (114) .
Tuy nhiên, vẫn nhân hậu với Hiệp Hoà:
“Gần đến kì tang sự phế đế, (vua [Kiến Phúc]) mệnh cho tôn thất và các quan văn võ ai nấy được ban tế một lần” .
Và về vụ án người dân mượn rượu nói “quốc sự”:
“Lúc bấy giờ [thượng tuần tháng bảy nguyệt lịch Quý mùi], người xã Long Hồ (huyện Hương Trà) là Nguyễn Văn Thịnh đi đến bến đò Vạn Xuân (gần [kinh] thành, ngoài cửa Tây nam), nhân say rượu, nói liên thanh, nói đến việc tự tiện bỏ vua này, lập vua khác, nói nhiều câu bất tốn. Bọn [Nguyễn Văn] Tường, [Tôn Thất] Thuyết tâu xin đem chém bêu đầu ở chỗ phạm tội. Vua không nghe, cho đổi làm trảm giam hậu. (Sau vua [Hiệp Hoà] bị truất bỏ, [Nguyễn] Văn Thịnh mới được [hai đại thần phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết] tha)” (115) .
Trong khi đó, Dục Đức (Ưng Chân) với thê thiếp, con cái, vẫn được chỉ định cư trú trong giới hạn quản chế, được chu cấp mọi mặt để sinh sống, học tập, tại Giảng đường Viện Thái y.
Từ đầu hạ tuần tháng sáu đến cuối tháng mười nguyệt lịch, nói tròn số là bốn tháng trời, không dài, nhưng triều Nguyễn phải trải qua đến ba vị vua: Dục Đức (Ưng Chân), Hiệp Hoà (Hồng Dật), Kiến Phúc (Ưng Đăng)! “Tứ nguyệt tam vương”! Dẫu có những tác dụng tích cực cho công cuộc chống thực dân Pháp, đó cũng là một nỗi đau lịch sử. Trong giai đoạn lịch sử ấy, ý hệ bảo hoàng vốn lại bị nhồi nhét thêm lòng trung quân mù quáng, do đó, trong tâm thức sĩ phu cũng diễn ra một sự giằng xé, phân thân, dao động. Vì thế, vẫn thấy về sau có xuất hiện hai câu thất ngôn khá bảo hoàng, mê tín, ngu trung, phản động:

“Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường”!

Một sông hai nước nạn nhiều thuyết
Bốn tháng ba vua điềm chẳng lành!

“Nhất giang lưỡng quốc ngôn nan thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường”!

Một sông hai nước, lời – khôn [:không thể] nói
Bốn tháng ba vua, điềm – chẳng rành [:hay]!

Hai nước một sông, lời – khó nói
Ba vua bốn tháng, điềm – không hay! (116)


Nhưng bi kịch ở đỉnh điểm mâu thuẫn còn bị tình huống đẩy đến một mức khác. Bởi mâu thuẫn nội bộ triều đình tự bản thân nó là một biểu hiện rõ nét mâu thuẫn giữa thực dân Pháp, “tả đạo”, tay sai với những người chủ chiến yêu nước, trung nghĩa với triều Nguyễn một cách sáng suốt, cho nên, thật không đơn giản! Mâu thuẫn ấy chỉ được giải quyết một khi,
+++ hoặc những người tích cực chống Pháp trong triều đình Huế và dân tộc ta,
+++ hoặc “tả đạo”, tay sai và thực dân Pháp,
một trong hai, sẽ hoàn toàn thắng thế, nghĩa là tình huống hoàn toàn ngã ngũ…
Đỉnh điểm mâu thuẫn khác sẽ xảy ra trong thời điểm từ tháng sáu đến tháng chín Giáp thân (1884)…
Đỉnh điểm mâu thuẫn ở mức tột độ: cuộc Kinh đô Quật khởi hai mươi ba tháng năm Ất dậu (05.07.1885), phát động sự bùng nổ phong trào Cần vương…
Bi kịch cùng bản anh hùng ca dưới ngọn cờ phong kiến triều Nguyễn, từ nỗ lực chiến đấu, cầm cự đến bại vong, phân hoá, đã và sẽ cất lên, vang vọng suốt gần bốn mươi năm (1858 – 1896)…

Hết tệp 10
(phân đoạn 4)
– trọn truyện kí thứ 10 –


Khởi viết truyện kí thứ mười này vào lúc khoảng 07 giờ
ngày 01.01.2003.
Viết đến dòng chữ này lúc 18 giờ 05 phút,
ngày mùng 04.01.2003 (02.12 Nh. ngọ HB.3)
tại thành phố Hồ Chí Minh.


TRẦN XUÂN AN


(105) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 240.
(106) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 259 – 260.
(107) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 253 – 254.
(108) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 255.
(109) Cao Huy Thuần, Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân Pháp tại Việt Nam (1857 – 1914), luận án tiến sĩ tại Pháp, bản dịch ronéo của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1973, tr. 31 (bức điện tín trên được lưu trữ tại Thư khố Bộ Hải ngoại Pháp, mang kí hiệu thư khố: A 30 (58), hộp 16).
(110) ĐNTL.CB., tập 36, 1976, sđd., tr. 63 – 64.
(111) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 255 – 259.
(112) PCĐT. Tr.TTh., (trong đó có in lại bài viết của Đào Duy Anh trên Tập san Những người bạn cố đô Huế [Bulletin des amis du vieux Huế (BAVH.), linh mục Pháp Cadière làm chủ bút, số 4 – 6/ 1944], bản dịch Bùi Trần Phượng), Nxb. Thuận Hóa, 1992, sđd., tr. 77 – 79.
(113) ĐNTL.CB., tập 36, 1976, sđd., tr. 68.
(114) ĐNTL.CB., tập 36, 1976, sđd., tr. 54 – 55.
(115) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 219.
(116) Phan Trần Chúc có chép lại hai câu thơ khuyết danh này trong cuốn Vua Hàm Nghi (VHN.), Nxb. Chính Ký, Hà Nội, 1951, Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1995, tr. 52: “Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết, Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường” với bản dịch là: “Một sông, đôi nước, khôn đường nói [Thuyết]; Bốn tháng, ba vua, điềm chẳng lành [Tường]”. Nhà văn Thái Vũ đã chép một dị bản khác: “Nhất giang lưỡng quốc ngôn nan thuyết”. Xin lưu ý về phép tiểu đối. Chữ “thuyết” (nói) là động từ, do đó, chữ “tường” cũng phải là động từ, có nghĩa là rành rẽ, hay biết. Tạm dịch nghĩa: Một sông, hai nước, lời [thì] khó nói; Bốn tháng, ba vua, điềm [báo trước, mà] chẳng biết. Về điềm báo trước, sử gia Quốc sử quán ghi nhận: “Ngày ất hợi, làm lễ tấn tôn tại Đền Thái hòa. Khi các quan đương sắp hàng lạy, có một con chim đậu trên ngọn cây trước Đền kêu lên bốn tiếng lớn. Đến khi đọc di chiếu, lại có một đòan dê đi qua cầu Kim Thủy. Người ta cho là điềm không tốt” (Quốc sử quán triều Nguyễn, Quốc triều chính biên toát yếu, bản dịch tiếng Việt của Quốc sử quán, Nxb. Thuận Hóa, 1998, tr. 543 – 544). Như vậy, theo bản sưu tầm của nhà văn Thái Vũ, phải hiểu câu thơ ấy như sau: Bốn tháng, ba vua, điềm [báo trước là không tốt, mà nhiều người] chẳng biết. Quả là rất hàm súc (kiệm lời, nhưng gộp được nhiều ý, kể cả ý của Quốc sử quán)! Ai bảo thơ ca hò vè phản động, mê tín, ngu trung không có những câu, những bài hay (hình thức nghệ thuật không điêu luyện)!?!

Chú thích xong lúc 11 giờ 17 phút,
ngày 15.01.2003
(15.01 Q. mùi, năm thứ hai công nguyên Hòa Bình [:HB.3]).


TRẦN XUÂN AN



MỤC LỤC

1. Truyện kí thứ chín: Bắc Kì, tưởng chừng lặp lại.
2. Truyện kí thứ mười: Bi kịch ở điểm đỉnh mâu thuẫn và sự chiến thắng của nhóm chủ chiến yêu nước tại triều đình.

Mục lục.
Danh mục sách của tác giả.


Ghi chú :
Đổi font, sửa lỗi sắp chữ và bổ sung một vài chi tiết (như vượt thành…): 13.02.HB.4 (23.01. Giáp thân HB4).



In ở bìa 4:


“… Bộ truyện kí – khảo cứu tư liệu lịch sử này cũng thể hiện ước mong: Mỗi người chúng ta tự đối diện với chính mình. Hình như đấy là nỗi ước mong của lịch sử với biết bao xương máu! Tôi cảm nhận nỗi ước mong ấy khi nghiên cứu và trong quá trình viết.
Điều cuối cùng cũng là đầu tiên trong bộ truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử này vẫn là: Đoàn kết dân tộc và đoàn kết nhân loại.
Nếu bộ truyện kí – khảo cứu tư liệu lịch sử này tình cờ được để mắt đến, hi vọng người đọc, gồm cả những người Pháp, người Hoa, người Âu Mỹ nói chung, gồm cả những tu sĩ, giáo dân Thiên Chúa giáo tại Việt Nam và trên mọi đất nước, sẽ không trút giận vào tác giả, do sự thật lịch sử được cố gắng tái hiện một cách trung thực nhất…”
.

(trích “Vài lời thưa trước” của tác giả).


Ghi chú về tác giả:
Trần Xuân An
(có bài kí bút danh: Trần Ngôn Sử)
Sinh ngày 10. 11. 1956 tại Huế;
Nhân tộc: Kinh (Việt Nam);
Quê gốc: Quảng Trị;
Tốt nghiệp khoa ngữ văn Việt ĐHSP. Huế (1974 – 1978);
Dạy học tại Lâm Đồng, 1978 – 1983;
Hiện nay, chuyên sáng tác, nghiên cứu
(Hội viên Hội Nhà văn TP. HCM.).

1971, cùng bạn bè chủ trương tập san Đất Vàng, trong giới học sinh ở Tam Kỳ (Quảng Nam – Đà Nẵng), với bút hiệu Huyên Đình (Người Mẹ).
1973, “Tiếng chuông xưa” , bài thơ lãng mạn đầu tiên in trên Tuổi Ngọc.
1975, được tặng thưởng “Một trong mười bài thơ hay nhất trong năm” của báo Văn nghệ Giải phóng.
1991, giải Sáng tạo trẻ, Hội VHNT. Quảng Trị.

DANH MỤC
TÁC PHẨM, SOẠN PHẨM, BIÊN KHẢO
CỦA TÁC GIẢ
(tính đến 2005)

Tác phẩm đã xuất bản và đã đăng kí bản quyền tại Cục bản quyền tác giả văn học nghệ thuật Việt Nam:

1. Nắng và mưa, thơ, Hội VHNT. Quảng Trị, 1991.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
2. Hát chiêu hồn mình, thơ, Nxb. Đồng Nai, 1992.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
3. Tôi vẫn ở trên đường, thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1993.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
4. Lặng lẽ ở phố, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
5. Kẻ bị ném vào bão, thơ, Nxb. Trẻ, 1995.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/
6. Hát với đời ơi thương mến, thơ, Nxb. Trẻ, 1996.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/
7. Quê nhà yêu dấu, trường ca thơ, Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1998.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
8. Có một nơi lá mãi xanh, tiểu thuyết, Nxb. Hội Nhà văn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
Blogger tháng 12-2005
http://tranxuanancmnlamaixanh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaix2.blogspot.com/
9. Ngôi trường tháng giêng, tiểu thuyết, 1998, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
10. Sen đỏ, bài thơ hoà bình, tiểu thuyết, 1999, Nxb. Thanh Niên, 2003.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
11. Phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử, trọn bộ 4 tập, 2002 – 2003; Nxb. Văn Nghệ TP. HCM.
http://www.giaodiem.com tháng 11-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
Blogger tháng 12-2005
http://tranxuananpcdtnvt1a.blogspot.com/ & … 2a … 2b … 2c …
12. Ngẫu hứng đọc thơ, phê bình thơ, 2003; NXB. Văn Nghệ TP. HCM., 2005
http://www.giaodiem.com tháng 7-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
Blogger tháng 12-2005
http://tranxuananbinhtho.blogspot.com/

Tác phẩm đã hoàn tất bản thảo:

13. Mùa hè bên sông (Nỗi đau hậu chiến), tiểu thuyết, 1997; hai bản đã sửa chữa và bổ sung, 2001 (lần hai) và 2003 (lần ba).
Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com tháng 6-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
14. Thơ những mùa hương, thơ.
Blogger tháng 11-2005
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/
http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
15. Giọt mực, cánh đồng và vở kịch điên, thơ.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
16. Nước mắt có vị ngọt, tập truyện ngắn, 1999.
http://www.giaodiem.com tháng 10-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm

Soạn phẩm biên khảo đã hoàn tất bản thảo:

17. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), thơ – Vài nét về con người, tâm hồn và tư tưởng (biên soạn – nghiên cứu, phản bác, và tập hợp một số bản dịch, bài khảo luận văn học và sử học về NVT.), 2000 & 2003.
http://www.giaodiem.com tháng 8-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
18. Tiểu sử biên niên Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường – “kẻ thù lớn nhất của chủ nghĩa thực dân Pháp” (từ Đại Nam thực lục, rút gọn), dạng niên biểu, sách dẫn chi tiết, phần I, 2001.
19. Những trang Đại Nam thực lục về Kì Vĩ phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886) và các sự kiện thời kì đầu chống thực dân Pháp… (Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học VN.), chọn lọc, phần II, 2001.
20. Nguyễn Văn Tường (1824 – 1886), “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, 2002 & 2003. Website Giao Điểm:
http://www.giaodiem.com
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
21. Suy nghĩ về một số vấn đề trong lịch sử cổ đại nước ta, khảo luận, 7.2004.
http://www.giaodiem.com tháng 9-2005
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm

Địa chỉ:
71B Phạm Văn Hai,
Phường 3, quận Tân Bình
(cửa hiệu PHAN HUYÊN)
TP. HCM.
ĐT.: 08.8453955
& 0908 803 908
Email: tranxuanan_vn@yahoo.com


TRÂN TRỌNG KÍNH MỜI TRUY CẬP THÊM
CÁC ĐỊA CHỈ WEBs / BLOGs
(bấm vào các đường LINKs sau đây):

I. THƠ : _________________________
________________________________________________

http://tranxuanantthitap1.blogspot.com/
http://tranxuananthitap2.blogspot.com/
http://tranxuananthitap3.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap4.blogspot.com/
http://tranxuananthitap5.blogspot.com/
http://tranxuananthitap6.blogspot.com/
http://tranxuanantruongcatho7.blogspot.com/
http://tranxuananthitap9.blogspot.com/
http://tranxuanantthitap9.blogspot.com/

II. TIỂU THUYẾT : _________________
________________________________________________

http://tranxuananngoitruongthgieng.blogspot.com/
http://tranxuanansendobthhbinh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaixanh.blogspot.com/
http://tranxuanancmnlamaix2.blogspot.com/

III. PHÊ BÌNH – TIỂU LUẬN : ________
________________________________________________

http://tacphamtranxuanangiaodiem.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan.blogspot.com/
http://tranxuanantieuluan9b.blogspot.com/
http://tranxuananbinhtho.blogspot.com/

IV. TRUYỆN – SỬ KÍ –
KHẢO CỨU TƯ LIỆU LỊCH SỬ :
____________
________________________________________________

http://tranxuananpcdtnvt1a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt2b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt3a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt3b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4c.blogspot.com/

V. TRANG PHỤ : PHẢN HỒI : ĐỒNG CẢM – TRAO ĐỔI – LÀM RÕ & ĐÍNH CHÍNH _____________
_________________________________________

http://tranxuanan-trphu.blogspot.com/



HOẶC CÓ THỂ BẤM VÀO DÒNG CHỮ
VIEW MY COMPLETE PROFILE
Ở BẢNG ABOUT ME
ĐỂ TỪ NHỮNG ĐƯỜNG LINKs TẠI ĐÓ,
ĐỌC NHỮNG TÁC PHẨM KHÁC CỦA TÁC GIẢ
TRÊN WEBs / BLOGGER.


NGOÀI RA, CÓ THỂ TRUY CẬP THÊM
CÁC TÁC PHẨM SÁNG TÁC, KHẢO LUẬN, BIÊN SOẠN
CỦA TÁC GIẢ
TRÊN TẠP CHÍ ĐIỆN TỬ GIAO ĐIỂM
(xin bấm vào các đường LINKs sau đây):

http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/505_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/605_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/705_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/805_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_III05/905_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1005_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1205_index.htm

http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_txa-ky-content.htm


Trân trọng và cảm ơn.
Tác giả,
Trần Xuân An


TÁC GIẢ GIỮ BẢN QUYỀN
TỪNG CHỮ, TỪNG Ý TƯỞNG CỦA MÌNH.


NHÀ XUẤT BẢN VĂN NGHỆ TP.HCM
2003
(trong bản đã xuất bản,
tạm thời gác lại một vài đoạn chú thích)


Hết tệp 10
(phân đoạn 4)
– trọn truyện kí thứ 10 –
thuộc TẬP III bộ sách “PCĐT. NVT.”.

XIN XEM TIẾP TẬP IV :
http://tranxuananpcdtnvt4a.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4b.blogspot.com/
http://tranxuananpcdtnvt4c.blogspot.com/

TRỌN BỘ BỐN TẬP.

KÍNH MỜI & TRÂN TRỌNG CẢM ƠN

XIN TÌM ĐỌC:

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN
NGUYỄN VĂN TƯỜNG
(1824 – 1886)


(truyện – sử kí – khảo cứu tư liệu lịch sử)
trọn bộ 4 tập (985 tr. 16 x 24 cm)

Tác giả: TRẦN XUÂN AN

Hội đồng Tư vấn, Phản biện & Giám định
thuộc Hội Khoa học lịch sử Việt Nam giám định.
Tổng Thư kí Hội Khoa học lịch sử Việt Nam
DƯƠNG TRUNG QUỐC
viết lời giới thiệu.


NXB. VĂN NGHỆ TP. HCM. ấn hành, 12-2004
Công ti FAHASA phát hành, 01-2005

Tạp chí điện tử Giao Điểm đăng tải:
http://www.giaodiem.com
tháng 11 & 12-2005 …
http://www.giaodiem.com/mluc/mluc_IV05/1105_index.htm ...



Trân trọng và cảm ơn.

______________________________________


LỜI CẢM ƠN
VỀ VIỆC PHÁT HÀNH
TRÊN MẠNG LƯỚI LIÊN THÔNG TOÀN CẦU (INTERNET)


Tác giả chân thành cảm tạ Web BLOGGER
(một bộ phận của GOOGLE)
đã cho sử dụng nhiều blogs
để đăng tải, lưu trữ vĩnh viễn, 11 & 12-2005;

chân thành cảm tạ trước hết là MSN SEARCH,
sau đó là GOOGLE SEARCH và YAHOO SEARCH,
đã truy cập, lưu trữ vĩnh viễn,
đáp ứng nhu cầu tìm đọc của độc giả, 11 & 12-2005;

chân thành cảm tạ Ông NGUYỄN VĂN HÓA
(chủ biên Tạp chí điện tử GIAO ĐIỂM)
đã nhiệt tình đăng tải, lưu trữ vĩnh viễn,
các tác giả, độc giả của Tạp chí điện tử GIAO ĐIỂM,
các nhà nghiên cứu, các nhà văn,
các bạn văn trong và ngoài nước đã quan tâm,
lưu ý theo dõi từng tệp (file) một.
(Nếu có sơ suất nào đó trong thư tín điện tử (e-mail) qua lại,
ngoài ý muốn,
xin vui lòng lượng thứ).



Một lần nữa, xin trân trọng cảm ơn và hi vọng.
Kính mời xem tiếp tập III và trọn tập IV bộ sách này.

TRẦN XUÂN AN

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập III B 9)

Tệp 9 – Tập III Blog B
(PHÂN ĐOẠN 3 TRUYỆN KÍ THỨ 10)


TRẦN XUÂN AN

BI KỊCH Ở ĐỈNH ĐIỂM MÂU THUẪN
VÀ SỰ CHIẾN THẮNG
CỦA NHÓM CHỦ CHIẾN YÊU NƯỚC TẠI TRIỀU ĐÌNH


Truyện kí thứ mười
(phân đoạn 3)

6

De Champeaux vốn đi theo Harmand, Courbet trong trận tấn công Thuận An. Sau khi “hoà” ước Quý mùi 1883 kí kết, y ở lại làm khâm sứ với quyền hạn rộng hơn trước, người Pháp gọi là trú sứ (résident). Y nhậm chức vào ngày 30 tháng 08.1883 (28.07 Quý mùi) (69). De Champeaux, kẻ đã từng vận động Trần Tiễn Thành để truất quan Thương bạc Nguyễn Văn Tường khỏi cơ quan ngoại giao – thương mại và đã từng nuôi kế hoạch “đập tan tành” ông, lúc này y lại đến, nhậm chức với chức trách nhiều quyền hạn hơn!
Thượng thư Bộ Công Trần Văn Chuẩn sung làm Thương bạc đại thần (70). Bức thư đầu tiên Trần Văn Chuẩn viết theo lệnh Hiệp Hoà gửi Lý Hồng Chương, trình bày “phái viên nước Pháp đến cửa Thuận An bắt hiếp phải “hoà”” (70) !
Quân ta phòng thủ ở cửa biển Tư Hiền cũng phải rút về kinh (71)!
Hiệp Hoà lại ra sắc dụ triệt thoái các quân thứ ở Bắc Kì và thi hành các điều khoản nhục nhã khác về việc chấp nhận các quan chức do Pháp mới dựng lên ở ngoài ấy, tức chấp nhận những tên cỡ như ngụy tổng đốc Trương hồi Quý dậu 1873:
“… Đã phái bọn toàn quyền đại thần Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hợp cùng với nước ấy bàn định “hoà” ước ấy, tuy chưa được hai nước kí tên đóng ấn, nhưng đã cùng với toàn quyền nước ấy bàn định. Trong ấy, khoản thứ tư (IV) nói, hiện nay quân đánh dẹp ở Bắc Kì tức khắc gọi về, trừ ra quân trong ngạch thời bình vô sự [quân chỉ đủ khả năng giữ gìn trật tự trị an] thì đóng lại; lại khoản thứ năm (V) nói, nên lập tức rút quan quân ở Bắc Kì, điều về chỗ làm việc cũ của mình [quân vốn ở đâu thì về chỗ ấy, chứ không được bố trí theo thế trận tấn công, phòng thủ gần đây]; lại phái quan viên điền bổ ngạch khuyết [vì một số quan ta đã bỏ nhiệm sở, bất hợp tác]; lại nên cùng với nước Pháp, hai bên bàn bạc, cấp bằng thực thụ cho các quan viên mà nước Pháp hiện đã đặt ra. Các việc như thế. Trừ cả hoà ước sẽ cho sao lục để thi hành ra, còn quân thứ hiện tại ở Bắc Kì, [từ] đại tướng quân đến biền binh đoàn dũng đều phải lập tức triệt bãi, hoặc về kinh, hoặc về tỉnh, hoặc về chức cũ, đều nên theo như cũ, cho khỏi ngăn trở lỡ việc…” (72) .
Thượng thư Nguyễn Văn Tường đành phải làm những công việc bình thường ở Bộ Hộ. Ông đang kí vào một tờ tâu bài trừ tệ nạn tham ô, nhũng nhiễu vòi ăn lễ lạt của quan chức trong các kì thu thuế (73).
Thượng thư Nguyễn Văn Tường chưa bao giờ cảm thấy buồn đến xót xa như thế này, trước tình cảnh chung của Đất nước và trong không khí thê lương tại triều đình.
Những ngày đầu tháng tám Nam lịch Quý dậu (1883) này còn là dịp rước quan tài vua Tự Đức từ hoàng thành Huế lên Khiêm lăng, đặt vào Điện Hoà khiêm. May thay, ngày đưa quan tài vua Tự Đức lên thuyền rồng để chở lên lăng theo ngược dòng sông Hương, trời đã sang thu, sau khi mưa gió luôn mấy hôm, bỗng tạnh ráo (74).
Đến Viện Cơ mật – Thương bạc sau Tả vu Điện Cần chánh, thượng thư Nguyễn Văn Tường lại đau đớn đọc bản tập tâu về sự lộng hành của Pháp tại Bắc Kì: “Lính Pháp vào huyện An Dương (thuộc Hải Dương) bắt hiếp viên tri huyện là Trần Đôn xuống thuyền. [Trần] Đôn nhảy xuống sông chết. [Tâu chi tiết hơn:] [Trần] Đôn bị người Pháp bức bách xuống tàu thuỷ nhỏ, đem lên tỉnh thành. [Trần] Đôn không chịu đi, nhảy xuống sông trẫm mình” (75) .
Ông lại nghiên cứu bản dụ của vua Hiệp Hoà và các phản hồi từ nhân dân các tỉnh, nhất là các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị, Quảng Bình, và từ các sinh viên Quốc tử giám. Đó là bản dụ trấn an nhân dân, vì trong nhân dân có những sự đồn đãi tin thất thiệt hoặc hoang mang lo sợ chiến tranh, lương – giáo phục thù, đến mức có nhiều người, nhiều nhà bồng bế, gánh gồng tản cư, trốn chạy. Đó còn là bản dụ trách móc, mỉa mai lực lượng sinh viên yêu nước, quyết chí ném bút nghiên, tòng quân đánh giặc một cách vô lí của vua Hiệp Hoà: “Đến như các học trò ở Quốc tử giám, trước đã xin đi đánh giặc, ta đã không cho, nay lại nhân thể để cầu tiếng trung nghĩa. Tin tức truyền đi, càng sinh ra mối ngờ vực. Những thói điêu ngoa như thế, đáng chán, đáng giận” (76) !!!
Tháng tám nguyệt lịch, mùa trung thu! Thượng thư Nguyễn Văn Tường lại nhận được tập tâu từ Thanh Hoá: “Tàu nước Pháp qua ngoài khơi [của] đồn cửa biển Y Bích, bắn súng lớn rồi đi” (77) ! Đất nước đã đến lúc không thể kiểm soát được nữa chăng?
Những mẩu tin từ các tập tâu, những bản dụ thể hiện cả một bối cảnh đau lòng của Tổ quốc và nhân dân.

7

Vụ truất phế Ưng Chân (Dục Đức) vẫn chưa giải quyết xong!
“Khoa đạo là Hoàng Côn, Đặng Trần Hanh tâu nói:
“Hôm trước ở Tả vu Điện Cần chánh, cứ viên đồng phụ chính đại thần là Tôn Thất Thuyết nói rõ, là có một đoạn trong di chiếu của tiên đế răn bảo vua nguyên nối ngôi, vì vua nguyên nối ngôi sao lục ra đã bỏ bớt đi, đại thần Trần Tiễn Thành tuyên đọc cùng bỏ đoạn ấy đi, có phần không phải” (78).
[Vua Hiệp Hoà bảo:]
“Trẫm xét: Ngày tiên đế ngồi tựa ghế ngọc, các phụ chính đại thần đã xin bớt đoạn ấy đi. Tiên đế không nghe, đủ biết là tiên đế nghĩ việc phó thác tôn miếu, xã tắc là việc trọng đại, lo sâu nghĩ xa, cho nên nói khẩn thiết như thế. Đại thần được dự nghe mệnh lệnh dặn lại, phải nên trên thể theo ý của tiên đế mà tuyên bố cho mọi người nghe, lại coi như bỏ rơi; trước đã xin bớt mà không được, nay lại tự bỏ đi mà không đọc”.
[Các bầy] tôi [ở Khoa đạo] cho là: “Vua nguyên nối ngôi bỏ bớt lời di chiếu, chưa chắc đã không phải tự viên đại thần ấy dẫn đường ra trước. Vậy xin giao cho đình thần bàn xét để nghiêm kỉ cương”.
Vua giao cho đình thần bàn…” (78)
.
Đó là biên bản các sử quan ở Quốc sử quán ghi nhận.
Hôm đình nghị ấy, thượng thư Bộ Hộ, đại thần Viện Cơ mật – Thương bạc Nguyễn Văn Tường có tham dự. Ông đứng bên cạnh đại thần Tôn Thất Thuyết. Hai vị quan lớn đã từng chủ trương và quyết hành động vì quyền độc lập của Đất nước, vì quyền tự chủ và sự bền vững của triều Nguyễn, trong vụ phế truất Dục Đức, cảnh cáo Trần Tiễn Thành, hiện cả hai vị đang đứng bên nhau cùng với triều thần phân tích lại di chiếu, di chúc của tiên đế Tự Đức và vụ việc ấy.
Đại thần Trần Tiễn Thành không còn đau buốt hai chân nữa. Vẫn da thịt hồng hào, đỏ đắn, ông ta lại giữ được vẻ đường bệ trước đây, bước đến chỗ tấu sự, đọc bản sớ trình bày vụ việc. Dẫu muốn hay không, Trần Tiễn Thành cũng phải cố gắng trình tấu một cách trung thực, đúng như sự thật đã xảy ra:
“Ngày mười bốn (14) tháng trước [tháng sáu nguyệt lịch], tiên đế triệu chúng thần vào điện, thần Trần Tiễn Thành cùng chúng thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, để trao cho chúng thần tờ di chiếu đựng trong hộp. Chúng thần sang phòng thái giám để kính đọc.
Di chiếu có đoạn như sau: “Tính hiếu dâm, ngoài ra tâm tính rất xấu, không chắc đương nổi việc lớn”.
Thần Nguyễn Văn Tường nói: “Di chiếu là để lập người nối ngôi trời, sợ đoạn này không hợp lắm, nên xin bỏ đi”.
Thần Tôn Thất Thuyết và tiện thần Trần Tiễn Thành cũng cùng một ý. Và chúng thần đã cùng dâng sớ tâu xin như thế. Nhưng tiên đế bác đi.
Ngày mười tám (18), Thụy quốc công [Ưng Chân] triệu chúng thần đến Điện Quang minh và bảo: “Nhà vua đứng đầu trăm họ cũng phải là người đứng đầu về đạo đức. Trong di chiếu của tiên đế, vì lo cho tương lai nên có lời răn bảo nghiêm khắc, chẳng hạn như đoạn nói về sự bê tha”. Hoàng tử nói không dám trái ý tiên đế, nhưng bảo thêm: “Tuy nhiên, đúng vào lúc trong nước rối loạn, quan hệ ngoại giao thì căng thẳng, nếu tin đồn về di chiếu loan ra, chẳng những bọn gây rối lấy đó làm cớ, mà các lân bang cũng vì vậy mà coi khinh. Làm thế nào cứu gỡ tình hình này?”. Hoàng tử hỏi có thể bỏ đoạn ấy không, nhưng tự mình không dám. Chúng thần đáp là hội đồng phụ chính đã xin bỏ đoạn ấy nhưng tiên đế không cho, và nay thì không còn có thể thay đổi gì được nữa. Hoàng tử yêu cầu mọi người suy nghĩ thêm, sao cho khỏi tổn hại đến việc quốc gia.
Ngày mười chín (19), (ngày tuyên đọc di chiếu), thần Nguyễn Văn Tường cáo bệnh xin nghỉ. Tiện thần cũng nhiều lần xin cáo vì tuổi già. Thần Tôn Thất Thuyết cho rằng thần là bậc trưởng lão, không chịu vượt qua [khó khăn] để đọc di chiếu. Thế mà lễ tuyên chiếu đã sẵn sàng. Không thể từ nan, thần phải tuyên đọc di chiếu. Song thần quá đỗi đau thương nên mắt mờ, tai điếc, tâm trí bất định do gần đây có bệnh. Thần cũng không nhớ rõ mình có sai sót gì không trong khi đọc. Nay quan Khoa đạo hặc tội, thần xin chịu mọi hậu quả” (79)
.
Trần Tiễn Thành đã đọc bản sớ ấy trong một cuộc đình nghị cuối tháng bảy trước. Đến thượng tuần tháng tám nguyệt lịch này, định nghị thêm một lần nữa, và đã đi đến kết luận chung.
Biên bản do sử thần Quốc sử quán ghi nhận tiếp:
“Vua giao cho đình thần bàn, mọi người đều xin chiểu luật “truyền tả chế thư sai lầm” mà xử tội trượng, cách chức.
Vua cho là:
“Đời xưa thời bình, chính giản [:chính sự giản đơn], cũng còn dùng người cũ, nữa là ngày nay thời khó khăn, việc nhiều, há nên đem viên đại thần bốn triều, lầm một cái mà không dung thứ ư? Đổi làm giáng hai cấp, lưu [nhiệm] ”” (78)
.
Hai quan Khoa đạo (Viện Đô sát) Hoàng Côn, Đặng Trần Hanh chỉ nói thêm:
- Tâu hoàng thượng, dẫu sao, hai bản thủ bút di chiếu, di chúc của tiên đế Dực Tông (Tự Đức) vẫn còn nguyên vẹn. Bản bị sửa chữa là bản sao. Hoàng trưởng tử Ưng Chân “sai sao tờ di chiếu, tự tay xoá bỏ đoạn ấy đi; dặn Trần Tiễn Thành nhớ mà làm (11) [“đọc nhỏ, hàm hồ không rõ”]” (11) . Đó là tang chứng, vật chứng. Xin lưu lại cho công luận muôn đời sau.
Hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết trước đây đã tâu xin không những giao vấn đề cho đình thần mà cho cả Phủ Tôn nhân cùng hội đồng để xét xử. Mức án được định ra: “Chiểu theo như lệ Xương Ấp vương [đời Hán, bị Hoắc Quang phế truất], tước cả chức tước và ấp phong, đuổi về ngạch cũ (công tử), vẫn để nguyên tên cũ, cái nhà ở cũ xoá bỏ tên gọi của đường (Dục Đức), vẫn được ở đấy như cũ. Cần chi tiêu sai bảo gì, liệu đặt người dạy bảo, thì đều [do] ti có chức trách nghĩ làm. Lại thường kiểm thúc, xem xét để tỏ ra ân tình và pháp luật đều vẹn cả” (80) . Nhưng vẫn chưa bằng lòng, vua Hiệp Hoà giao cho Viện Cơ mật – Thương bạc xét lại (80). Viện – Bạc gồm Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Trọng Hợp lại đưa ra mức án khác, ngoài việc xử như Xương Ấp vương, chỉ hơi nặng hơn một chút về tiện nghi sinh hoạt: “Xin để cho ở một cái nhà cũ, một cái nhà bếp, năm tên lính hầu, để phòng sai khiến. Và đổi đặt một tên dực thiện đi lại coi xét, dạy bảo. Nhưng bắt đề đốc kinh thành cùng các viên ở phủ Thừa Thiên phải để ý phòng giữ (không cho người tạp nhạp ra vào). Và Phủ Tôn nhân thời thường kiểm sát” (80) . Vua Hiệp Hoà vẫn âu lo sẽ tái diễn bi kịch đẫm máu thời Tự Đức với các vụ biến động Hồng Bảo, Đinh Đạo . Nhà vua bảo: “Cái nhà ấy sâu rộng, coi xét làm sao được!” (80), “bèn cho nguyên tự quân [Dục Đức] dời đến ở Giảng đường Viện Thái y; vất bỏ cái biển (Dục Đức) ở cửa cái nhà cũ đi. Chuẩn cho lấy cái nhà trước làm nhà kinh thành đề đốc, nhà sau làm biệt thự của Nội các” (80) .
Hai thượng thư Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết thấy mọi việc đã minh bạch, về Dục Đức (Ưng Chân) cũng như về Trần Tiễn Thành. Thực chất của vấn đề, triều thần không nói cặn kẽ, nhưng không một ai không biết, ấy là sự mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng chủ “hoà” và chủ chiến đã đi đến điểm đỉnh của nó, buộc phải bùng nổ thành cuộc truất phế và cảnh cáo đầy tính bi kịch như thế. Triều thần cũng không phải không hiểu ẩn ý của vua Tự Đức đằng sau bình diện minh văn của những dòng chữ thủ bút chính tay vua Tự Đức viết trong sự đắn đo, nghĩ ngợi, nghiền ngẫm: Vua Tự Đức vừa xử trị Dục Đức về tội thân Pháp, “tả đạo”, vừa muốn các đại thần thanh minh cho nhà vua về vụ Hồng Bảo, Đinh Đạo.
Dẫu sao, đó cũng là một bi kịch. Bi kịch ấy chưa chấm dứt ở đó. Đỉnh điểm của bi kịch vẫn còn bị tăng cấp! Mười ba tháng sau, vào tháng tám, đầu tháng chín năm Giáp thân (1884), dưới triều vua Hàm Nghi, Dục Đức (Ưng Chân) lại thêm một lần cuối cùng bị xử lí…
Bỗng dưng…
Ngày bính thìn tháng tám nguyệt lịch, sắc mặt trời lúc mới sáng thì màu xanh, dần dần lại biến ra màu trắng (81)! Người đi đường không có bóng. Và suốt ngày không lúc nào có ánh sáng (81). Đó là một hiện tượng thiên văn rất đỗi lạ lùng!
Theo thông lệ, căn cứ vào thuyết thiên – địa – nhân cảm ứng, ba đại thần Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết dâng sớ xin vua tự trách mình, sửa chữa chính sự và tự cho ba người bất tài, không giúp được vua điều gì cho thực có công hiệu, xin nhà vua thu lại chức phụ chính (81). Vua Hiệp Hoà trách ba đại thần khéo tránh việc (81)…
Thật ra đó chỉ là một thông lệ bình thường để vua quan có dịp tự phản tỉnh, suy xét lại những gì mình đã làm với những câu hỏi tự vấn. Liệu những tên thực dân Pháp, “tả đạo” Pháp và Ưng Chân, vua nối ngôi bị truất phế, hiện đang sống với vợ con thê thiếp tại Giảng đường Viện Thái y, có tự phản tỉnh, tự vấn lương tâm?

8

Tình hình triều đình và mặt trận Bắc Kì vẫn không hề yên tĩnh!
Các quân thứ Bắc Kì do Hoàng Tá Viêm làm thống đốc vẫn không chịu tuân theo sắc dụ triệt thoái quân binh do vua Hiệp Hoà ban bố vào tháng trước. Nay vua Hiệp Hoà lại cùng cánh chủ “hoà” do Trần Tiễn Thành đứng đầu lại đưa ra một sắc dụ khác. Nhà vua biết rằng “những khoản trong “hoà” ước có nhiều điều bị kém, bị nhục, khó chịu. Đáng lẽ ta không nghe. Nhưng vì từ cung tuổi già, linh cữu của tiên đế chưa chôn, lòng trẫm rất không yên, [nên] đã dụ cho văn võ đình thần lấy “hoà” ước làm cuộc nhất định” (82) ! Hoàn toàn vin vào những cớ không một chút nào vì dân, vì nước! Bản dụ còn viết: “Nay nên do quan quân thứ viết thư hỏi toàn quyền nước Pháp [Harmand] nên chiểu theo “hoà” ước, giao trả cho ta các tỉnh Hà Nội, Nam Định, Hải Dương để quan ta cai trị [bên cạnh có công sứ Pháp kiểm sát, chỉ huy], thì quân thứ các ngươi lập tức rút binh dõng về để tỏ là ta thực tiễn “hoà” ước. Còn đoàn quân Lưu Vĩnh Phúc cùng quan nước Thanh không phải ta sai bảo được! [Trẫm] đã ước cùng quan nước Pháp tự làm [:đánh dẹp] lấy, [đoàn quân của họ Lưu] đối với ta không can thiệp gì. Cũng nên do quân thứ đem sự tình ấy viết thư cho toàn quyền nước Pháp biết. Như thế mới hợp thời thế” (82) !
Đã thế, cánh chủ “hoà” chiếm số đông trong triều thần, hoàng tộc, lại nổi lên những lời công kích trực tiếp vào thượng thư Bộ Binh, đại thần Viện – Bạc Tôn Thất Thuyết, đến nỗi “thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết xin thôi, không giữ việc binh, cho dẹp tắt lời bàn bậy” (83) . Hẳn là rất trúng ý vua Hiệp Hoà, nhưng nhà vua vẫn còn nể nang vị đại thần đã có công tôn lập. Vả lại, đúng là tài thao lược của điện tiền tướng quân Tôn Thất Thuyết, như nhà vua nói, tuy với lời xã giao hoặc nói chung chung: “Việc binh khó tìm người thay” (83) . Tuân sắc dụ, Viện Cơ mật và Thương bạc phải xét vấn đề để phúc tâu.
“Việc binh tự lâu vẫn lần lữa theo cũ, thực khó tìm người giữ nổi chức ấy. Nay viên ấy vì người ta chê trách nhiều, mà cố xin từ chức. Nếu được từ chức về dưỡng bệnh, thực bởi lòng hoàng thượng chiều thương, không có điều gì đáng bàn. Nhưng đương lúc lòng người ngờ sợ này mà tự ý dò tính, hoặc cho là chỗ vua tôi có điều ngờ vực nhau, sợ không thể làm cho thoả mãn được tai mắt mọi người. Nghĩ xin chọn ở trong ba bộ: Lại, Hộ, Công, liệu cho đổi lẫn để tỏ lòng chí công, mà im lời bàn bậy” (83) .
Đó là lời tâu của Viện Cơ mật – Thương bạc, gồm những đại thần Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Trọng Hợp! Viện – Bạc đã bị cân bằng số phiếu chủ “hoà” và chủ chiến, và uy thế phía chủ chiến đã bị áp lực làm giảm thấp khá nhiều! Vua Hiệp Hoà đồng ý, đổi Tôn Thất Thuyết sang Bộ Lễ (83). “Ấn triện Bộ Binh giao cho bọn tham tri là Hà Văn Quan hội đồng quyền giữ” . Sau đó, Nguyễn Trọng Hợp phải ra Bắc Kì làm khâm sai để cùng Pháp thực thi “hoà” ước Quý mùi 1883 (!), nên đại thần Tôn Thất Thuyết lại qua làm thượng thư Bộ Lại (83).
Đoàn khâm sai đại thần ra Bắc, gồm thượng thư Bộ Lại Nguyễn Trọng Hợp (chánh), thượng thư Bộ Công Trần Văn Chuẩn (phó), tham tri Bộ Lại Hồng Phì (phó), biện lí Bộ Lễ Đinh Văn Giản (tham biện) (84) với nhiệm vụ thuyết phục quan quân và nhân dân chịu Pháp “bảo hộ” với chế độ công sứ Pháp bên cạnh quan Đại Nam, giao nhận thành trì, hoàn toàn triệt thoái binh dõng!!! Đó là đoàn khâm sai đại thần bị quan quân cùng phần lớn nhân dân tại Bắc Kì phản đối kịch liệt.
Tại triều đình mâu thuẫn vẫn dâng cao, ở Bắc Kì cũng tình trạng như thế!
Thực dân Pháp quyết dùng vũ lực tiêu diệt quân thứ Sơn Tây, lực lượng quan trọng nhất, do thống đốc Bắc Kì, bình Tây trấn Bắc đại tướng quân Hoàng Tá Viêm trực tiếp chỉ huy. Tại Sơn Tây, còn có lực lượng đoàn dũng của đề đốc, Nghĩa Lương nam Lưu Vĩnh Phúc.
Lực lượng tiến binh của Pháp lên đến bốn mươi hai (42) chiếc tàu binh, hai nghìn (2.000) quân (85). Chúng tiến theo hai đường, thuỷ và bộ. Trận chiến nổ ra dữ dội, quyết liệt tại các xã Thượng Mỗ, Hạ Mộ [Mỗ] (thuộc phủ Hoài Đức), Đoài Khê (thuộc huyện Đan Phượng), tỉnh Hà Nội. Quân ta, quân họ Lưu và cả quân nhà Thanh cùng phối hợp phản công rất hào hùng. Tiếng súng vang rền suốt ba ngày đêm, từ mùng một đến mùng ba tháng tám nguyệt lịch Quý mùi (01 – 03.09.1883). “Quân Pháp lại thua ([ta] bắn vỡ [vừa] tàu to, vừa tàu nhỏ: ba (3) chiếc; bắn chết hơn ba trăm (300) lính Pháp)” (85) .
Ta hoàn toàn thắng trận (85)!
Đây là trận đánh thứ hai có sự tham chiến viện trợ của quan binh nhà Thanh.
Tin báo tiệp tâu vào triều đình. Hoàng Tá Viêm cũng tâu sẽ rút quân về Sơn Tây, và sẽ tâu tiếp vào lần sau. Vua Hiệp Hoà đành phải thuyết phục Hoàng Tá Viêm: “Ta vẫn biết cục “hoà” ước có nhiều điều khó chịu, nhưng vì thế bách buộc, không thế không được. Nay cục “hoà” mới định, lòng người tạm yên…” (85); “nếu cố chấp ý kiến riêng mà bàn khác đi, thì một góc xa xôi, nếu có thể chắc là giữ được, nhưng còn kinh sư và tôn miếu, xã tắc thì làm sao? Huống chi họ nhiều lần nói xin ta rút quân, cho nên không làm thế không được” (85) .
Pháp vẫn ngang ngược đem quân kị mã, hơn ba trăm tên, theo đường bộ đến huyện Nam Chân, tỉnh Nam Định. Nhân dân sợ hãi, náo động (86).
Pháp lại bắt hiếp tỉnh thần Hải Dương đến Hải Phòng. Tổng đốc Lê Điều, tuần vũ Nguyễn Văn Phong, bố chính sứ Vũ Túc đều bị giam dưới thuyền, nhưng bọn Pháp vẫn buộc họ làm việc quan theo ý chúng (87). Bố chính sứ Vũ Túc (cử nhân Nam Định) uất ức, không chịu khai việc đinh điền, và chết vì không chịu nổi bọn Pháp làm nhục. Về sau, Lê Điều nhờ đoàn khâm sai thương thuyết mới được tha. Ông liền cáo ốm, xin nghỉ (87).
Lãnh tuần phủ Hà Nội Vũ Nhự “cùng với phái viên Pháp không hợp nhau” (88) , vì ông vẫn chống lại chúng, nên được điều vào kinh làm tả thị lang Bộ Binh (88).
Cho đến tháng chín nguyệt lịch, quan chức Bắc Kì vẫn không tài nào cam chịu nổi bọn Pháp hống hách, ngang ngược và bạo tàn. Tham tán đại thần quân thứ Bắc Ninh Bùi Ân Niên được điều bổ làm tổng đốc Ninh – Thái. Ông dâng sớ xin từ, chỉ muốn vào kinh. Nhưng rồi, cuối cùng ông không được lệnh vào kinh, cũng không đến nhận chức tổng đốc (89). Ông cáo ốm. Đề đốc Nam Định Tạ Hiện lại đi mộ nghĩa dũng, quyết chống Pháp đến cùng. Pháp cố mời ông đến, ông khước từ. Vua Hiệp Hoà cũng không chuẩn theo lời tâu xin của tổng đốc Thanh Hoá cho Tạ Hiện về tỉnh ấy (90)! Đến tháng mười, vua Hiệp Hoà triệt cả đề đốc Tạ Hiện lẫn đề đốc Tôn Thất Hoè về kinh, nhưng Tạ Hiện đã nhận ấn nhà Thanh, liên lạc với các quan, chiêu mộ nghĩa dũng, chờ quân Thanh tiếp tục sang để kháng chiến chống Pháp (90). Cũng như đề đốc Tạ Hiện, “tán tương quân thứ Sơn Tây Nguyễn Thiện Thuật (cử nhân người Hải Dương) nhận trát của quan nhà Thanh, đem quân nhà Thanh về Hải Dương gọi họp quân nghĩa dũng, đánh nhau với Pháp. Các nơi trong hạt ấy đều khởi quân để ứng theo. […] Từ đấy về sau, [quân do Nguyễn Thiện Thuật chỉ huy] thường thường đến sát tỉnh thành đánh nhau với Pháp, bên nào cũng có tử thương” (91) ! Rất tiếc, mặc dù mục đích là rất chính nghĩa, nhưng Tạ Hiện, Nguyễn Thiện Thuật không độc lập khởi nghĩa, tranh thủ viện trợ, lại mượn danh nghĩa nhà Thanh và chiến đấu dưới cờ của họ!
Trong tháng mười ấy, “thân hào, xã dân ở Thừa Thiên, Quảng Trị cùng nhau đoàn kết, chiêu mộ dân dũng. Vua dụ sai phủ doãn, tỉnh thần hiểu thị nghiêm sức để cho họ yên thường giữ phận, chớ phạm việc trái phép [!]” (92) !
Bọn thực dân viễn chinh Pháp lại nghi ngờ tuần phủ Hải Dương Nguyễn Văn Phong, tuần phủ Quảng Yên Hoàng Vỹ đã mật kết với quân thứ Sơn Tây, nên chúng giải hai ông xuống thuyền chở vào Gia Định (93)! Bọn Pháp còn kết án tuần phủ Nguyễn Văn Thận đã nhiều lần tải thuốc súng, lương thực đi Sơn Tây, căn cứ vào tờ thông tư mật của ông. Chúng bắt ông về Hà Nội, bắn chết (93). Chúng lại bắt cả án sát Vũ Ích Khiêm (về sau, khi được giặc thả, ông cáo bệnh, xin nghỉ) (93).
Không những thế, pháp còn xem Đất nước ta như chỗ cho chúng lộng hành. Đem năm trăm (500) quân, bọn Pháp đến Sơn Tây lấy đầu và xác Henry Rivière đưa về (94). Công sứ Pháp còn đến thẳng ngoài cửa Khiêm cung, nơi Khiêm hoàng hậu Vũ thị đang cư tang vua Tự Đức, để chơi xem (95) (?!?).Người đóng ở đó và quản suất không bảo ban, ngăn cản tên thực dân ấy được. Họ đều phải bị giáng hai cấp, lưu nhiệm! Pháp lại đến núi Linh Thái (thuộc cửa biển Tư Hiền, Thừa Thiên) cắm nêu, đánh dấu ba vị trí để ngắm qua thấu kính nhằm vẽ bản đồ, và đo mực nước (96). Chúng lại ngăn chận bến đò Ninh Bình, đóng quân ở núi Dục Thuý, đặt công sứ tại đấy để kiểm sát quan ta. Phủ mới tại Yên Khánh thuộc tỉnh ấy, chúng cũng dỡ đi (97)! Pháp còn bắt tỉnh thần Ninh Bình giao sổ đinh điền cho chúng, để chúng điều nghiên, quản lí (97). Ở tỉnh Quảng Yên, cũng thế, Pháp ngang tàng bố trí công sứ, đóng quân (97)! Pháp còn chỉ huy lính mộ đến đạo Mỹ Đức (thuộc Hà Nội) ức hiếp quan quân ở đấy để lấy hai thớt voi trận (98). Tại Hưng Yên, chúng đến hành cung, yêu cầu sửa lại làm trụ sở, đồng thời còn ngang ngược hỏi số lượng tiền bạc tồn kho, thuốc súng, khí giới (99)!
Từ sau khi kí kết “hoà” ước Quý mùi (1883), tình trạng quân quan và nhân dân ta vô cùng tủi nhục, đau xót!
Khoảng cuối hạ tuần tháng tám nguyệt lịch Quý mùi (1883), vấn đề liên minh với nhà Thanh vẫn được nỗ lực vận động, nhưng hầu như vua Hiệp Hoà không chú trọng điều đó. Khi “tổng đốc Quảng Đông nước Thanh là Tăng Quốc Thuyên đưa thư trả lời, nói là đã đem các văn thư của nước ta chuyển đạt lên [hoàng đế Quang Tự nhà Thanh] rồi. Vua [Hiệp Hoà] xem thư, nói rằng: “Xem kĩ thì biết viên tổng đốc này hình như sợ người Pháp hiềm thù, cũng đồng ý với Cung Thân vương, Lý Hồng Chương, cho nên tự trước không chịu ra mặt giúp đỡ ta. Nay dẫu có ý tốt cũng muộn quá rồi. Huống chi họ còn đương biện luận chưa biết bao giờ xong, chỉ phô trương đến nghĩa hão mà không ích gì vậy”” (100) !
Còn đoàn khâm sai Phạm Thận Duật, Nguyễn Thuật và khâm phái Nguyễn [Thượng] Phiên?
“… Đến tháng tám, vừa được “hoà” ước mới của Lãng quốc công [Hồng Dật, tức là Hiệp Hoà], có khoản “nước Thanh cũng không được dự việc của nước ta”, [nhà Thanh] bèn vin cớ ấy, nhân [đó] để trút trách nhiệm. Nguyễn Phiên đóng ở Quảng Đông thì tổng đốc Quảng Đông cũng sợ người Pháp giận. [Khâm phái ta] nhiều lần cầu vào yết kiến, [tổng đốc Quảng Đông] đều lấy cớ ốm, từ chối. Rồi [cả Phạm Thận Duật, Nguyễn Thuật lẫn Nguyễn Phiên] đều đến mùa đông năm [Quý mùi] ấy, lục đục trở về” (101) !
Tuy vậy, hồi tháng chín nguyệt lịch Quý mùi (1883), về việc sắc phong cho vua nối ngôi Hiệp Hoà, tuần phủ Quảng Tây nước Thanh Nghê Văn Uý đã phúc đáp văn thư rằng nhà Thanh sẽ cử sứ sang phong sắc như thông lệ cũ. Vua Hiệp Hoà phái thượng thư Nguyễn Văn Tường cùng viên linh mục hành nhân (thông ngôn) Nguyễn Hữu Cư đi qua Sứ quán thông báo cho De Champeaux để y chuyển thông tin ấy về chính phủ Pháp (102). Rất cực lòng, nhưng thượng thư Nguyễn Văn Tường phải tuân hành, và tất nhiên theo cách của ông. Ông xem đó là dịp để khẳng định cho De Champeaux và tất cả bọn Pháp biết rằng, triều đình Đại Nam vẫn không đọan tuyệt quan hệ ngọai giao với Trung Hoa! De Champeaux rất tức giận, vì đây là một điều, ngay từ lúc kí kết “hoà” ước Giáp tuất 1874, Pháp đã muốn cắt đứt và tìm mọi cách để cắt đứt quan hệ ngoại giao Trung Hoa – Đại Nam. Chúng thừa biết việc sắc phong này, lúc bấy giờ, chỉ là một cách công chứng tính chính thống của vị vua nối ngôi trên phương diện ngoại giao khu vực và quốc tếa”nhưng vẫn cố tình gây khó dễ. De Champeaux yêu sách vô lí, đòi xem tờ biểu báo tang của nước ta, bản chính văn thư phúc đáp của tuần phủ Quảng Tây! Viện – Bạc đành phải theo sắc dụ của vua Hiệp Hoà trao cho De Champeaux xem (102)! So với vua Tự Đức, thấy rõ là Hiệp Hoà đã quá khiếp nhược và chỉ muốn ấm chỗ trên ngai vàng!
Hiệp Hoà hầu như rất triệt để tuân theo “hoà” ước Quý mùi 1883, “hoà” ước mà không một ai chịu nổi ngoài nhà vua và cánh chủ “hoà”!
Quả thật, vua Hiệp Hoà chỉ muốn giữ yên ngai vàng, vun quén cho thân mẫu, ngoại thích.
“Nhắc viên Cẩm y hiệu uý là Nguyễn Duy Thiện làm nhị đẳng thị vệ (vì [Nguyễn] Duy Thiện là cháu gọi vua bằng cậu)” (103) !
Từ tháng chín, vua đón hoàng thái phi Trương thị vào ở Cung Khôn thái, dâng lên mẹ vàng bạc, gấm lụa, tiền đồng, tiền kẽm… Ngay việc cấp lương cho mẹ, vua Hiệp Hoà cũng trực tiếp gợi ý cho Bộ Hộ, Bộ Lễ với mức lương cao hơn cả Khiêm hoàng hậu (vợ vua Tự Đức) (104)!!!
Đối với Hiệp Hoà, vua mới lên ngôi, hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đã đi từ chỗ hi vọng ở vua về ý chí cứu nước, cứu dân, đến nay họ đã rơi xuống tâm trạng thất vọng, và cuối cùng, lúc này, trong lòng họ không thể không căm ghét vị tân vương tầm thường đến mức tệ hại như thế!

Hết tệp 9 (phân đoạn 3, truyện kí thứ 10)

Khởi viết truyện kí thứ mười này vào lúc khoảng 07 giờ
ngày 01.01.2003.
Viết đến dòng chữ này lúc 18 giờ 05 phút,
ngày mùng 04.01.2003 (02.12 Nh. ngọ HB.3)
tại thành phố Hồ Chí Minh
.

TRẦN XUÂN AN


(69) Theo chú thích ở cuốn “Nước Pháp và những vụ việc ở Bắc Kì, theo văn kiện chưa công bố” (L’Occoption du Tonkin par France (1873 – 1874), d’après des documents inédits, BSEI., p. 85” (BAVH. 1915) của Jean Marquet và Jean Norel.

(70) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 226.

(71) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 226.

(72) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 226 – 227.

(73) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 228, 238. Trích nguyên văn về việc Nguyễn Văn Tường chống tham ô: “Gạo kho ở cửa biển Thuận An (kho tạm) chở về kho ở kinh. Lang trung Thuyền chính là Nguyễn Văn Tán, phó giám lâm Thương trường là Nguyễn Văn Cư cùng bọn chủ thủ hội đồng ao lại để chứa. Thu được nhiều mà báo có ít. (Biên bản của hội đồng gạo tám ngàn một trăm bốn mươi [8.140] phương, đến lúc ao lại, thừa gạo ra bảy trăm tám mươi chín [789] phương). [Do đó], bị chưởng vệ là Trần Khắc Trung, viên ngọai lang là Nguyễn Tuấn tố giác ra. Bộ Hộ và Thuyền chính đem việc tâu hặc lên…” (sđd., tr. 238) .

(74) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 228 – 229.

(75) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 229.

(76) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 230.

(77) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 231.

(78) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 231.

(79) PCĐT. Tr.TTh., (trong đó có in lại bài viết của Đào Duy Anh trên Tập san Những người bạn cố đô Huế [Bulletin des amis du vieux Huế (BAVH.), linh mục Pháp Cadière làm chủ bút, số 4 – 6/ 1944], bản dịch Bùi Trần Phượng), Nxb. Thuận Hoá, 1992, sđd., tr. 71 – 72.

(80) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 231 – 232.

(81) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 234.

(82) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 234 – 235.

(83) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 235 – 236.

(84) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 237.

(85) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 236 – 237.

(86) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 238.

(87) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 238 – 239.

(88) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 239.

(89) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 245.

(90) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 247, 248.

(91) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 253.

(92) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 249.

(93) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 255.

(94) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 242.

(95) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 243.

(96) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 243.

(97) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 244.

(98) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 247.

(99) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 2498.

(100) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 239.

(101) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 161 – 162.

(102) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 246.

(103) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 239.

(104) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 242, 246.

Chú thích xong lúc 11 giờ 17 phút,
ngày 15.01.2003
(15.01 Q. mùi, năm thứ hai công nguyên Hòa Bình [:HB.3])
.

TRẦN XUÂN AN


Hết tệp 9
(phân đoạn 3)
Xin xem tiếp tệp 10
(phân đoạn 4), truyện kí 10
thuộc TẬP III bộ sách “PCĐT. NVT.”.

PHỤ CHÍNH ĐẠI THẦN NGUYỄN VĂN TƯỜNG (tập III B 8)

Tệp 8 – Tập III Blog B
(PHÂN ĐOẠN 2 TRUYỆN KÍ THỨ 10)


TRẦN XUÂN AN

BI KỊCH Ở ĐỈNH ĐIỂM MÂU THUẪN
VÀ SỰ CHIẾN THẮNG
CỦA NHÓM CHỦ CHIẾN YÊU NƯỚC TẠI TRIỀU ĐÌNH


Truyện kí thứ mười
(phân đoạn 2)

3

Chiếc kiệu của đại thần Trần Tiễn Thành được phép ngừng ngay trước tam cấp ngôi nhà vuông phía sau Tả vu Điện Cần chánh, nơi Viện – Bạc dùng làm chỗ bàn thảo các việc cơ mật. Mặc dù ngoài bệnh lị mạn tính, kinh niên, Trần Tiễn Thành còn mắc một bệnh mạn tính khác là phong thấp, hai chân tê buốt, khó đi đứng, ông ta vẫn tham dự các cuộc họp quan trọng của Viện Cơ mật, chỉ xin miễn vào chầu mỗi khi thiết triều. Những người lính hầu cận dìu Trần Tiễn Thành vào bộ trường kỉ chạm xà cừ được đặt ở gian giữa. Ở đó, đã có hai đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, cùng hai người phụ tá được tin cậy nhất của Viện.
Sau lời thăm hỏi thường lệ, cuộc họp của ba đại thần, thực chất là lãnh đạo tất cả các mặt của Đất nước, bắt đầu.
- Sức khoẻ tôi quá tệ, do đó, xin đại thần Nguyễn Văn Tường chủ trì cuộc họp cho. – Trần Tiễn Thành nói với giọng mỏi mệt của một ông lão bảy mươi mốt tuổi đang bị bệnh hành hạ, mặc dù da thịt vẫn hồng hào, đỏ đắn, khiến người ta tưởng ông ấy giả vờ –.
- Vâng, nếu thế xin mạn phép. – Thượng thư Nguyễn Văn Tường nói –. Tôi xin lướt qua vài nét về tình hình nội bộ triều đình, kể cả việc nội cung, đã chuẩn bị đình nghị. Sau đó, Viện Cơ mật – Thương bạc chúng ta sẽ bàn về việc cử sứ bộ sang nước Thanh để báo tang, đề nghị sắc phong cho tân vương (27). Vấn đề thứ ba là tình hình giặc Pháp, “tả đạo” tại Bắc Kì và ở một vài nơi khác (28). Trong đó, sẽ một lần nữa xác định lại quyết sách và chủ trương chung của chúng ta. – Ngừng lại, rồi thượng thư Nguyễn Văn Tường nói tiếp –. Về việc tấn tôn Từ Dũ thái hoàng thái hậu Phạm thị, lệnh từ của tiên đế Tự Đức, tấn phong Khiêm hoàng hậu Vũ thị, dưỡng mẫu của Dục Đức, đó là việc thực hiện di chiếu, di chúc; và việc tấn phong hoàng thái phi Trương thị, thân mẫu của vua Hiệp Hoà, cũng là cách xử trí linh hoạt, quyền biến nhưng hợp với luật lệ, hợp với các điển lệ trong sách sử (29). Hoàng thân Tuy Lý vương Miên Trinh cùng các quan Nội các, Sử quán, Quốc tử giám đã nghiên cứu kĩ (29). Vua Hiệp Hoà cũng đã tâu lên Từ Dũ thái hoàng thái hậu. Ngài đã cho thi hành (29).
Thượng thư Tôn Thất Thuyết nói:
- Như vậy là ổn rồi. Cái chính là tình hình giặc Pháp.
- Trước khi bàn nội dung chính ấy,– Thượng thư Nguyễn Văn Tường lại nói –, tôi đề nghị chúng ta bàn thêm việc cử sứ bộ sang Trung Hoa nhà Thanh. Đình thần cử tuần phủ Lạng Bằng Lã Xuân Oai sung chức hậu mệnh chánh sứ, trực học sĩ toản tu ở Sử quán là Nguyễn Khuyến (nhà thơ tam nguyên Yên Đổ) làm phó sứ (27).
- Vậy là hợp lí rồi. Nếu đi đường bộ không tiện, thì đi đường biển.
- Về giặc Pháp, sau khi tên đại tá Lý Ba Lợi (Vy Ê [:Henry Rivière]) bị quân họ Lưu do thống đốc họ Hoàng điều khiển hạ sát, hồi tháng tư nguyệt lịch Quý mùi (1883), chính phủ Pháp nhất trí theo Bộ Hải quân và Thuộc địa của chúng cử tên Mai De (Meyer) sang Bắc Kì thay thế. Ở nước Pháp, do hiện nay lực lượng viễn chinh xâm lược của chúng ở Địa Trung Hải, Ai Cập, Tunysie đã ổn định được tình hình, vì thế, nhân dịp này, bọn Pháp cầm chính quyền đang tuyên truyền rùm beng cho tên giặc văn sĩ Henry Rivière, để kích động nhân dân Pháp ủng hộ chúng trong việc xâm lược Bắc Kì. Chính phủ Pháp gồm các tên xâm lược đã đồng thuận việc đánh chiếm Bắc Kì. Tên tướng Bouet đã dẫn thêm quân và tàu chiến tới Bắc Kì với số lượng khá nhiều. Hiện nay, tên tướng khác, là Cô Bi (Courbet), cũng đã đến tăng cường. Còn tên y sĩ Hà A Măng (Harmand), thời trước cùng An Nghiệp Ngạc Nhe (Françis Garnier) xâm chiếm Bắc Kì, sau này làm lãnh sự ở kinh đô Băng Cốc nước Xiêm, đang được bọn chóp bu ở Pháp cử làm cao uỷ Trung – Bắc Kì, thống lãnh cả các tên tướng Meyer, Bouet, Courbet (28). Bọn chúng còn dự định đánh vào cửa hải phòng kinh đô là Thuận An. Viện Cơ mật ta đã được các tin quân báo của các quân thứ ở Bắc Kì tâu vào. Việc này, bản tâu của Viện ta hôm trước đã đề cập và nhận định rằng, chúng “đến cửa Thuận An bắt hiếp phải hoà, ta cũng khó giành được phần thắng” (24) . Do đó, lúc quan đại thần Trần Tiễn Thành bệnh, tôi và đại thần Tôn Thất Thuyết đã quyết định lấy tấn công làm phòng thủ, tức là muốn khỏi bị bọn Pháp tấn công Thuận An, thì phải tấn công vào sào huyệt của chúng tại Bắc Kì, nhắm vào binh lực của chúng đang tập trung ngoài ấy. – Thượng thư Nguyễn Văn Tường trình bày, lại nói với vẻ căm giận –. Thế mà hiện nay, thuế quan tấn ở Hà Nội, phái viên Pháp thu lấy, không cho quan ta biên sao theo thương ước Giáp tuất 1874, có nghĩa là chúng ngang ngược đơn phương chiếm giữ lấy tiền thuế thu được (30). Ở cửa biển Thi Nại tỉnh Bình Định, trước đây, cũng như tên khâm sứ Rheinart tại kinh đô Huế, lãnh sự ở đấy đã bỏ chạy, nay chúng lại đem tàu binh đến đỗ, toan tính lại đến thu thuế thương chính! “Trước đây lãnh sự nước Pháp từ biệt ra đi [như Rheinart rời Huế], trụ sở giao cho quan tỉnh trông coi. Đến nay nước Pháp [đem] tàu đậu ở cửa biển, đến xem trụ sở, và hỏi mỗi tháng thu thuế được bao nhiêu” (31) ! Và cũng trong thượng tuần tháng bảy này, tàu chiến nước Pháp lại đỗ ở cửa biển Tư Hiền (tỉnh Thừa Thiên), cho lính xuống thuyền ván gỗ sam vào đo lường mực nước cửa biển, rồi chạy đi (32). Tầu của bọn giặc Pháp lại đến ba chiếc, đỗ ở Đồn thuỷ Hà Nội, đào chân đê, đắp đường sá, làm luỹ hàng rào, ổ súng (33). Lại có thêm sáu chiếc tàu binh Pháp từ Bắc Kì chạy đến cửa biển Trà Úc (Quảng Nam) (34)! Viện – Bạc chúng ta đã tâu: “Phái viên nước Pháp từ trước chỉ làm việc ở Bắc Kì. Hai bên giữ nhau. Chúng lại bỏ đấy mà mưu toan chỗ khác, thì bởi quân thứ Bắc Kì giữ lâu cho giặc được rỗi thì giờ. Chúng mưu tính chỗ khác, thì sức lực chia ra. Quan quân thứ không nhân lúc này tiến đánh ngay, còn đợi lúc nào? Xin tư ngay cho hai quân thứ Sơn Tây, Bắc Ninh biết rõ tình hình ấy, lập tức phải đánh ngay, để bắt buộc thế giặc” (35). Hôm ấy, “vua cho lời tâu ấy là phải, sai lục sức ngay… vì nước Pháp phái tàu binh đến cửa Trà Úc rất nhiều, giáp gần với cửa Thuận An” (35) .
Thượng thư Nguyễn Văn Tường ngừng lại, nhấp một ngụm nước trà đã nguội, lại nói:
- Như vậy, ngày càng rõ là thế cưỡi hổ đã thành, buộc chúng ta phải cùng với chúng quyết một phen sống chết, một mất, một còn, vì tình hình ngoại giao ở Bắc Kinh, với sự trợ giúp của Lý Hồng Chương, ở Anh, Pháp với sự trợ giúp của Tăng Kỷ Trạch, xem như bị bế tắc. Mấy tháng trước, lãnh sự Pháp Bảo Hải (Bourée) đã bị điều về Pháp, Lý Cố (Tricou) đã sang thay, quyết không chịu điều đình! Sứ bộ ta do chánh phó sứ Phạm Thận Duật, Nguyễn Thuật ở Thiên Tân (Trung Hoa) và Nguyễn [Thượng] Phiên ở Quảng Đông (Trung Hoa), cũng thương thuyết không có kết quả gì (36). Nguyên nhân là chính phủ thực dân Pháp quyết từ chối mọi điều đình với Trung Hoa nhà Thanh về Đại Nam ta! Rõ ràng thế cưỡi hỗ đã thành, nhưng chiến thuật lấy tấn công làm phòng thủ cũng không có kết quả cao ở Bắc Kì! Tên Harmand lại vừa đưa yêu sách như một thứ chiến thư (37)! Trước tình hình như vậy, xin các đại thần chúng ta cho ý kiến để tâu lên quyết sách của Viện Cơ mật ta.
Đại thần Viện Cơ mật trẻ tuổi nhất là thượng thư Tôn Thất Thuyết. Ông muốn giữ lễ, nhưng vốn là một tướng võ, không kìm được tức giận, liền nghiến răng, nắm tay đóng mạnh xuống mặt bàn:
- Như vậy là phải một phen sống chết! Tôi đã tăng cường phòng thủ ở cửa Thuận An, quyết chiến với tinh thần “chết vinh hơn sống nhục”! Các tướng Lê Sỹ, Lâm Hoành, Nguyễn Trung và Ông Ích Khiêm, Trương Văn Đễ đã hạ quyết tâm với tôi như thế! Ở kinh thành, thự chưởng phủ sự Tôn Thất Thế, thự đô thống Hồ Văn Hiển, thự thống chế Đinh Tử Lượng, lãnh đề đốc phủ Thừa Thiên Tôn Thất Côn cùng với một viên tướng tài Trần Xuân Soạn, tiến sĩ võ khoa Vũ Văn Đức cũng quyết tâm như vậy (38)!
Thần Tiễn Thành, vốn vừa ngán sợ, vừa cảm phục đại thần Tôn Thất Thuyết, liền giấu một nụ cười nhạt. Ông ta nói:
- Nhưng hoàng thượng Hiệp Hoà đã sai tham tri Bộ Binh Nguyễn Thành Ý cùng viên hành nhân linh mục Nguyễn Hữu Cư xuống cửa biển Thuận An theo chiến thư của Harmand để thương thuyết (39)!
Nguyễn Hữu Cư, tên giáo sĩ nhị trùng suýt chút nữa là ngang nhiên ra vào nội cung để điều khiển Dục Đức (Ưng Chân), không những được khoan tha, miễn bị xử tội một lượt với mười bốn tên tay chân trong bọn Nguyễn Như Khuê, nay vẫn được triều đình Hiệp Hoà sử dụng với chức năng hành nhân (thông ngôn), trực thuộc Nha Thương bạc, bên ngoài kinh thành.
Thượng thư Tôn Thất Thuyết không thể không thấy nóng bừng cả đầu vì tức giận. Ông không ngờ vua Hiệp Hoà lại dám tự quyết định không thông qua tập thể hội đồng các quan phụ chính! Rõ ràng ông và thượng thư Nguyễn Văn Tường không hay biết điều đó! Mới đây, việc tàu Pháp vào cửa biển Tư Hiền, ông và thương thư Nguyễn Văn Tường đã quyết định: “Nếu [tàu Pháp] vào nhiều quá (ba, bốn chiếc trở lên) thì thương thuyết ngăn lại không cho, do quan cửa biển ấy theo ước thúc làm ngay [theo “hoà” ước, giục quân đánh ngay] cho kịp việc” (40) . Bấy giờ, vua Hiệp Hoà bảo: “Hai đồn đóng giữ cửa biển ở kinh vừa không đủ trông cậy. Nếu không biết cơ nghi, hiểu lí thế, thì không được. Nên giữ gìn mà thôi, không nên gây hiềm khích” (40) . Không phải hai thượng thư Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết muốn gây hiềm khích, nhưng, “hoà ước rõ ràng, mà chúng dám coi thường như thế, thì hoà ước cũng không đủ cậy. Ta đã chịu khuất, không dám tranh đua sức mạnh, mà chúng cũng chưa từng thương kẻ yếu” (24) ! Dẫu sao, cũng không thể đầu hàng, mà phải quyết sử dụng chiến thuật lấy tấn công làm phòng thủ. Nhưng vua Hiệp Hoà sau những tuần chịu ảnh hưởng của hai đại thần chủ chiến là ông và thượng thư Nguyễn Văn Tường, nhà vua lại ngã về phía chủ “hoà”; thậm chí đang lúc dầu sôi lửa bỏng ngay tại kinh đô, vua Hiệp Hoà còn vun quén cho thân mẫu, người thân bên phi tần và bên ngoại như Lê Văn Phú, Nguyễn Duy Thiện (41)…
Ba đại thần Viện – Bạc lại bàn về vụ Nguyễn Văn Thịnh lộng ngôn, bất tốn.
“Lúc bấy giờ [thượng tuần tháng bảy nguyệt lịch Quý mùi (1883)], người xã Long Hồ (huyện Hương Trà) là Nguyễn Văn Thịnh đi đến bến đò Vạn Xuân (gần [kinh] thành, ngoài cửa Tây nam), nhân say rượu, nói liên thanh, nói đến việc tự tiện bỏ vua này, lập vua khác, nói nhiều câu bất tốn. Bọn [Nguyễn Văn] Tường, [Tôn Thất] Thuyết tâu xin đem chém bêu đầu ở chỗ phạm tội. Vua không nghe, cho đổi làm trảm giam hậu… […] …” (42) .
Thượng thư Tôn Thất Thuyết nói:
- Miệng bọn đầu hàng, ngu muội thời nào cũng có. Hiện nay có nhiều kẻ còn cho tôi và thượng thư Nguyễn Văn Tường là “quyền thần”, “làm bậy”! Tên thường dân Nguyễn Văn Thịnh này mượn rượu để nói lộng ngôn, bất tốn, nhưng hắn ta nào hiểu ất giáp gì về vụ việc! Chả là ngay trước khi tên Thịnh này dám táo gan, Viện – Bạc tâu xin nhà vua ra sắc dụ với tinh thần “lấy tấn công làm phòng thủ”. Mấy bản sắc dụ quyết chiến ấy khiến bọn chủ “hoà”, đầu hàng, bọn “tả đạo” điên tiết. Chúng thuê tiền tên Nguyễn Văn Thịnh hoặc tuyên truyền kích động hắn ta, phục rượu hắn ta, nên mới thế! Hắn ngu muội, lại chửi rủa tôi và thượng thư Nguyễn Văn Tường đây! Thực ra, chỉ sợ nhân tâm, lòng dân dao động… Nhưng nhà vua không duyệt, chuẩn y, thì tôi nào dám chém ai! Một tên dân thường “mượn rượu chửi đại thần” như Nguyễn Văn Thịnh, tôi không dám tự ý trảm quyết, thì “quyền thần” ở chỗ nào? Quyết đánh giặc Pháp, lấy tấn công làm phòng thủ là “làm bậy” chăng?… Những kẻ như tên Nguyễn Văn Thịnh không hiểu rằng, không có việc “bỏ vua này, lập vua khác” thì, không tốn một viên đạn, giặc Pháp và “tả đạo” ung dung đặt ngai vàng “quan Pháp bảo hộ” song song với ngai vàng vua Đại Nam ta!
Thượng thư Tôn Thất Thuyết những muốn dùng từ “ngu trung” để chỉ những người dân ngu muội về chính sự như Nguyễn Văn Thịnh, nhưng tự thấy cũng không cần nói rõ làm gì! Thật ra, ông tự thấy với bản tính quan võ, quen ở trận mạc, trước ba quân vốn xem “quân lệnh như sơn”, ông cũng đã vừa nói những câu hơi thiếu dè dặt, rào đón, cẩn trọng…
Trong thâm tâm, hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết thừa hiểu, vua Hiệp Hoà đến nay cũng rất muốn chủ “hoà”, lại bị sức ép nào đó, cho nên giảm án thành “tội chém nhưng giam lại chờ xét”… Hay vua Hiệp Hoà không hiểu rằng có phe cánh, thế lực nào đó đã “đạo diễn” vụ Nguyễn Văn Thịnh “mượn rượu chửi đại thần” để truất bỏ “quyền thần” (!) chăng?…
Rốt cùng, sau khi bàn xong vài vấn đề nhỏ khác, thượng thư Nguyễn Văn Tường nêu câu hỏi về điều bức thiết, nghiêm trọng nhất:
- Ý kiến của quan lớn Trần Tiễn Thành là như thế nào trước tình hình dầu sôi lửa bỏng này, giặc de doạ bức bách cửa biển Thuận An bằng tàu chiến, súng đạn với dự thảo “hoà” ước mới gồm hai mươi bảy khoản mà hồi sinh thời, tiên đế Tự Đức đã quyết phản đối, phản đối nhưng rồi phải chấp nhận qua quýt để hoãn binh, và cuối cùng là quyết liệt phản đối cả phụ ước kiểu Tunysie kèm vào “hoà” ước Giáp tuất 1874 (43) lẫn dự thảo “hoà” ước mới gồm hai mươi bảy khoản ấy?
- Tôi vẫn chủ “hoà”. Nếu không thì thua sạch, mất tất cả! – Trần Tiễn Thành đáp với giọng run run của một người già –.
Cuộc họp Viện Cơ mật của ba đại thần với hai ý kiến quyết chiến và một ý kiến “hoà” (“hoà” có nghĩa là nhân nhượng, đầu hàng). Trong khi đó, trước tình hình căng thẳng nhất, căng thẳng chưa từng có trước đây, là lúc này, đình thần lại phân hoá. Sở dĩ ở cuộc họp Viện – Bạc này, Trần Tiễn Thành không cáo ốm cũng vì phe cánh chủ “hoà” lại đông hơn, một khi vua Hiệp Hoà đã cố thoát khỏi ảnh hưởng chi phối của hai đại thần chủ chiến Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết, gần như ngã hẳn về phe chủ “hoà”, mặc dù nhà vua còn nể nang.
Ngay sau cuộc họp, bản tâu được đệ trình lên vua Hiệp Hoà, thượng thư Bộ Binh Tôn Thất Thuyết liền nai nịt chiến bào, dẫn quân xuống thành Trấn Hải tại cửa biển Thuận An.

4

Bấy giờ, tháng bảy nguyệt lịch, Quý mùi (1883), còn thuộc vào năm thứ ba mươi sáu của niên hiệu Tự Đức, mặc dù vua Tự Đức đã băng hà. Tại Hải Phòng ngoài Bắc, có mặt tên Harmand, hiện là cao uỷ Trung – Bắc Kì, một chức vụ của giới cầm quyền chóp bu Pháp phong cho y, như thể Trung – Bắc Kì đã thuộc về tay chúng. Harmand đang đảm trách phần hành trước đây còn thuộc quyền tên thống đốc Nam Kì, bởi lẽ hiện nay, tại Bắc Kì, quân thuộc bọn Pháp đông đảo nhất từ trước đến nay: Số lượng hạm đội và quân binh viễn chinh Pháp, cộng với sáu trăm (600) tên ngụy Cờ Vàng, vốn là giặc Cờ, giặc khách (Hán gian) do tên Georges Vlavianos (“ông” Kiều), nguyên là tay chân của Jean Dupuis thuở nọ, chiêu tập làm tay sai, và còn có thêm số quân ma tà (giáo dân “tả đạo”) của các cố đạo thực dân (44). Harmand còn có chỉ thị, xui người Bắc Kì chống người Trung Kì (44)… Lúc này, Harmand đang cùng hai tên tướng viễn chinh Pháp họp bàn. Đó là thiếu tướng lục quân Bouet và thiếu tướng hải quân Courbet (44).
Ba tên thực dân cao cấp của Pháp quyết định tấn công Hải Dương, để uy hiếp Bắc Kì, trong khi đó, chúng xác định mũi tấn kích quyết định là Thuận An, cửa ngõ của kinh đô Huế, nhằm buộc triều đình Đại Nam phải đầu hàng (44).
Các quan tỉnh Hải Dương trước đây đã tuân dụ quyết chiến và dời thành của tỉnh về xã Phúc Cầu, huyện Đường An để xa đường sông, tàu thuỷ Pháp khó tấn công (45). Tất cả tiền bạc, gạo dự trữ và khí giới đều chuyển về đó, nhưng phân tán để tránh trường hợp như thành Hà Nội, thất thủ vì kho thuốc súng bị phá nổ. Tại thành cũ, chỉ còn phó lãnh binh quan Nguyễn Viết Vinh đóng giữ. Án sát Lê Mộ Khải, đề đốc Tôn Thất Hoè giữ phần hành đốc công xây dựng thành mới. Tổng đốc Lê Điều (người thay Phạm Phú Thứ trước đây) cùng bố chính sứ Vũ Túc đến làm việc tại nơi tạm đặt trụ sở là nhà quan cư của văn miếu tỉnh (45). Phái viên Pháp do thám được tin tức ấy. Ngày mùng mười, một ngày cuối của thượng tuần tháng bảy nguyệt lịch (12.08.1883), Pháp đem bốn chiếc tàu chiến kéo đến đồn Đồng Tân, chia lính lên bộ, vào thành cũ, treo cờ “tam tài” xanh trắng đỏ (còn gọi là cờ ba khoanh). Pháp bố trí quân chiếm giữ cửa thành. Nguyễn Viết Vinh rút quân về thành mới.
Pháp lại kéo quân đến thành mới đánh phá.
Tổng đốc Lê Điều uỷ cho đề đốc Tôn Thất Hoè, lãnh binh quan Văn Phú Lương dẫn quân ra nghinh chiến. Sau đó, Lê Điều trực tiếp cầm quân tiếp ứng. Trận chiến rất dữ dội, kịch liệt.
Bất ngờ, quân Pháp đã bố trí sẵn một cánh quân khác, đánh bọc hậu vào quan quân Hải Dương. Quân ta bị ép vào giữa hai trận đạn. Không cầm cự nổi, quân ta bị rối loạn hàng ngũ, vỡ tan. Tổng đốc Lê Điều thu góp tàn quân về đóng tại huyện hạt Cẩm Giàng, Đường Hào.
Thành mới, thành cũ Hải Dương đều bị mất vào tay giặc (45)!
Sau khi chiếm hai thành luỹ Hải Dương, Pháp quyết tấn công quân thứ Sơn Tây vốn do thống đốc Hoàng Tá Viêm trực tiếp chỉ huy và đoàn quân của Lưu Vĩnh Phúc. Quân thứ và đoàn quân ấy hiện đang đồn trú tại Hương Canh, Phù Diễn (thuộc phủ Hoài Đức), Hoàng Xá, Đại Cát (thuộc huyện Đan Phượng). Phủ Hoài và huyện Đan Phượng đều trong địa phận Hà Nội. Bọn Pháp quyết tâm báo thù cho đại tá Henry Rivière của chúng.
“Người Pháp tự sau khi thua ở trận Cầu Giấy, đem thêm tàu binh đến, chiêu mộ quân khách [Hoa kiều], cùng dân đi đạo [“tả đạo” Thiên Chúa giáo], quyết ý đánh một trận to với quân thứ Sơn Tây để báo thù” (46) .
Ngày mười ba tháng bảy nguyệt lịch (15.08.1883), Pháp kéo cả quân thuỷ, quân bộ, chia làm bốn đạo binh, tiến về phía quân ta một cách hùng hổ, dữ dội.
“Thống đốc Hoàng Tá Viêm đốc thúc quan quân cùng đoàn quân họ Lưu, bốn mặt tiếp ứng. Quan nước [Trung Hoa nhà] Thanh là Đường Cảnh Tùng cũng phái quân các doanh cùng đánh giúp. Các đạo quân [bên ta] đều hăng hái cố đánh. [Trận chiến nổ ra] từ giờ mão đến giờ dậu [từ 5 – 7 giờ sáng đến 17 – 19 giờ tối]. Quân Pháp thua chạy. Các quân thừa thắng bắn và chém hơn hai trăm (200) tên [Pháp và ngụy], rồi đem tin thắng trận ấy tâu lên” (46) .
Đây là trận đầu tiên quân Thanh trực tiếp tham chiến, mặc dù binh tướng Thanh đã qua đóng quân tại Bắc Kì từ tháng bảy Nhâm ngọ (1882).
Pháp đã bại trận một cách nhục nhã! Nhưng tin báo tiệp chưa kịp vào đến Huế…
Tuy bại trận như thế, nhưng Pháp vẫn cố theo đuổi kế hoạch của chúng. Pháp lại tập trung nhiều tàu chiến ở cửa biển Trà Úc (Quảng Nam) như tin Hải phòng sứ tỉnh ấy tâu ra, cấp tốc bay trên lưng ngựa theo đường trạm. Thượng thư Bộ Binh, điện tiền tướng quân Tôn Thất Thuyết đã đích thân xuống cửa biển Thuận An (Thừa Thiên) để chỉ đạo mặt trận. Hiệp Hoà trong lòng đã run rẩy, bỗng đâm ra luyến tiếc ngai vàng ngồi chưa ấm chỗ, nhưng bên ngoài vẻ mặt, vẫn thuận theo tinh thần quyết chiến của hai quan phụ chính Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết. Vua cho viên quan trực nhật là chưởng vệ Nguyễn Văn Sỹ mang một lá cờ lệnh, một cái ngự bài binh sự để giao cho tướng quân Tôn Thất Thuyết (47). Với cờ lệnh, ngự bài ấy, tướng quân Tôn Thất Thuyết đều được toàn quyền quyết định cuộc giáp chiến quyết định này tại cửa ngõ kinh đô là Thuận An. Tuy nhiên, Hiệp Hoà vẫn lo âu, tiếc nuối, nói thêm lời răn đe để Nguyễn Văn Sỹ về bẩm báo lại cho tướng quân Tôn Thất Thuyết:
“Nếu giảng “hoà” được cũng nên tòng quyền làm kế hoãn binh. Hết thảy mọi việc cốt phải muôn phần không còn lo ngại để giữ gìn tôn miếu, xã tắc, là sức ngươi cả. Nếu cậy khoẻ hiếu thắng, không biết cơ nghi, tất phải trách cứ rất nặng” (47) .
Chưa chiến đấu, Hiệp Hoà đã răn đe tướng mặt trận không nên chiến đấu!
Trên mặt sóng biển một ngày rực nắng, tướng quân Tôn Thất Thuyết đứng bên cạnh con trai là Tôn Thất Đàm, ông đang quan sát bằng ống nhòm thiên lí, bỗng thấy một chiếc tàu binh Pháp treo cờ ba khoanh xanh trắng đỏ xuất hiện. Nhưng sao chỉ một chiếc? Tay cầm hơi khẽ chao động, và lập tức, những ngón tay như bóp chặt chiếc ống nhòm. Ông chú mục quan sát, chuẩn bị ra lệnh cho quân sĩ sẵn sàng nghinh chiến. Tướng Tôn Thất Thuyết chợt thấy trên chiếc tàu binh Pháp ấy xuất hiện một tấm biển màu trắng có ghi đậm nét hai chữ “bàn hoà” bằng chữ Nôm và chữ Hán. Pháp “bàn hoà”?
Tàu mỗi lúc một tiến gần đến dải cát Thai Dương thượng và Thai Dương hạ, dải cát ngay trước cửa sông Hương. Dải cát ấy cách bờ đất liền và cùng với bờ đất liền làm nên phá Tam Giang phía bắc và đầm Sam phía nam. Tướng quân Tôn Thất Thuyết vẫn truyền lệnh cho quân sĩ sẵn sàng nghinh chiến, nhưng không được nổ súng, nếu chưa có lệnh tiếp theo được truyền ra. Còn hơn hai dặm ta (hai ngàn thước ta = 425 m x 2), như thể bỏ neo, chiếc tàu Pháp cho hai chiếc thuyền ván gỗ sam nhỏ chở vài sĩ quan Pháp với mươi tên lính và chèo tay vào bờ!
Hoá ra, bọn Pháp trao chiến thư (48)!
Bấy giờ, một chiếc tàu tuần tiễu của ta đang trở về, thấy tàu giặc với hai chữ “bàn hoà”, liền theo thông lệ, áp sát đến hỏi: “Tàu Pháp đến “bàn hoà” hay thực tâm có việc gì?”. Bọn Pháp chỉ vào hai chiếc thuyền sam bản đang chèo vào. Tàu tuần tiễu liền vào bờ.
Tham tri Bộ Binh Nguyễn Thành Ý và linh mục hành nhân Nguyễn Hữu Cư vốn đã được vua Hiệp Hoà phái về Thuận An mấy hôm trước, liền đến giảng thuyết với sứ giả Pháp. Tên phái viên Pháp liền nói xấc xược nhưng cũng để hoãn binh, cho tiện việc rút lui:
- “[Nguyễn] Thành Ý trước ở Gia Định, tướng [Thom-son] nước [Pháp] ấy không bằng lòng, nay đến thương thuyết, là khinh sứ phái [coi thường việc phái sứ đi bàn hoà]” (49) .
Nguyễn Thành Ý nói ngay:
- Sao câu nệ thế! Sứ giả chỉ tuân mệnh vua!
- Xin hãy đọc chiến thư! Tạm biệt!
Bọn Pháp chào và rút xuống thuyền, ngạo ngược, không thèm “bàn hoà” lấy nửa tiếng!
Khi mở vội phong thư ra xem, hai chiếc thuyền nhỏ đã xa bờ! Theo tinh thần thượng võ, tướng quân Tôn Thất Thuyết không cần ra lệnh nổ súng vào những tên sĩ quan sứ giả cùng toán lính Pháp ấy. Ông giận dữ, khi biết tối hậu thư của Pháp đòi triều đình giao tất cả các pháo đài từ cửa Thuận An lên dọc tuyến sông Hương cho chúng trong vòng hai giờ đồng hồ!
Tại triều đình, lúc này, vua Hiệp Hoà chỉ bàn việc quân cơ với Trần Tiễn Thành, Nguyễn Trọng Hợp và Tuy Lý vương Miên Trinh! Khi nhận được tin Pháp trao chiến thư, vua Hiệp Hoà liền sai Trần Thúc Nhẫn (Nhận) và Phạm Như Xương xuống tiếp để cùng Nguyễn Thành Ý đàm phán, với lời dặn “đại khái đem các việc vua cũ mới chết, vua mới [vừa] mới lên ngôi, giữ lẽ bàn bạc” (50) !
Năm ngày sau khi bọn Pháp đánh vào thành mới Hải Dương, vào ngày mười lăm tháng bảy nguyệt lịch, Quý mùi (17.08.1883), chúng từ Bắc liền kéo vào và từ Trà Úc (Quảng Nam) chạy ra, tất cả gồm tám chiếc tàu chiến loại tối tân nhất của chúng. Trên tàu chỉ huy, có các tên Pháp cao cấp như Harmand, Courbet, và cả tên khâm sứ cũ, De Champeaux (51).
“[Trần] Thúc Nhẫn, [Phạm] Như Xương vừa đến thành Trấn Hải, tàu Pháp đánh bắn luôn mấy ngày, [họ] không ra cửa biển [Thuận An] được” (52) . Cả hai chưa kịp thương thuyết một lời. Quả là bọn Pháp quyết thực hiện theo thư của tướng Pháp ở Gia Định, mấy tháng trước, lúc vua Tự Đức chưa băng hà, y đã đệ trình về Pháp:
“Sau khi thất bại [ở Gia Lâm và] Hà Nội, nên bỏ cái cách dùng thương thuyết. Khi nào Tự Đức nghe tiếng đại bác đầu tiên thì Tự Đức mới kí hoà ước. Cho nên, phải đánh ở Huế. Muốn đánh Huế thì phải lấy pháo đài Thuận An” (53) .
Ngày mười (10) tháng bảy (07) 1883, tên Challemel Lacour, bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp đã đọc diễn văn trước Hạ viện (Viện Thứ dân) Pháp:
“Nay phải giải quyết việc Viễn Đông bằng chiến tranh” (54) !
Từ mười sáu (16) giờ đến hai mươi (20) giờ, ngày mười sáu nguyệt lịch (19.08.1883), trước hạn cuối của tối hậu thư một tiếng rưỡi, tàu Pháp đã liên tục bắn đại bác vào đồn luỹ của ta. Các cỗ súng lớn của ta cũng đáp lại giòn giã, nhưng rất tiếc, tàu chiến Pháp đậu khá xa, quá tầm đạn đại bác thần công. Ngày mười bảy (20.08.1883), cuộc đấu trọng pháo giữa ta và địch vẫn rất kịch liệt. Đạn đại bác của chúng có sức công phá, rơi xuống lại nổ bùng, văng ra bốn phía những miểng gang, miểng sắt bén nhọn. Những thành luỹ bằng gạch vồ kiên cố, đạn đại bác của Pháp vẫn xuyên phá, tạo nên những lỗ to bằng chiếc thúng, đồng thời gây ra những vết nứt toác. Bức tường nào mỏng, trúng đạn pháo của chúng, liền sụp đổ ngay. Những luỹ đắp bằng đất cứ bị trúng đạn, văng tung tóe. Trong khi đó, các cỗ súng đại bác của quan ta, loại quá sơn, thần công cũng như các loại khác, đều nạp đạn từ nòng súng, bắn bằng loại đạn bằng sắt hoặc bằng gang, kích thước đủ các cỡ, đường kính từ khoảng mười (10) đến hơn ba mươi (30) phân tây, nhưng không nổ lại khi chạm mục tiêu, không có sức công phá. Bắn đi như thế nào, rơi xuống vẫn y nguyên như thế. Loại đạn đại bác này chỉ hiệu quả khi bắn vào các chiếc tàu bằng gỗ. Trúng đạn, tàu gỗ thủng ngay, và tất nhiên phải chìm tàu vì nước tràn vào. Nhưng với tàu bọc đồng của Pháp, loại đạn ấy bắn trúng vẫn rất khó thủng. Tầm bắn lại không được xa. Bọn Pháp biết được tầm bắn của đại bác quân ta, nên chúng đậu thuyền xa hơn tầm bắn. Đạn quân ta hầu hết bị rơi xuống biển! Tuy thế, quân binh ta vẫn kiên cường chống trả. Tàu chiến Pháp không dám tiến vào tiếp cận mục tiêu.
Hai chiếc tàu chiến, một thuộc loại thiết giáp hạm, đó là Bayard, và một chiếc khác, thuộc loại tuần dương hạm, tên Vipère, cố mạo hiểm lao vào, cả hai đều bị trúng đạn của pháo binh ta từ thành Trấn Hải và từ các đồn Hoà Duân (hoặc Hoà Quân, không phải là Hà Nhuận!), Cồn Sơn, Hạp Châu bắn ra. Chính trên chiếc tàu chiến Bayard, lại có mặt tên Harmand và De Champeaux (51)!
Ngày mười tám Nam lịch (21.08.1883), quân ta từ kinh thành lại kéo xuống tiếp viện. Cuộc chiến đấu vẫn rất quyết liệt, mặc dù quân ta bị tổn thương không ít. Hai chiếc tàu chiến Vipère và Lynx, mặc dù Vipère đã trúng đạn nhưng kịp thời được sửa chữa, đã tiến vào thành Trấn Hải. Trấn Hải là nơi bọn Pháp tấn công dữ dội nhất nên bên ta đã im tiếng súng bắn trả. Trần Thúc Nhẫn liền nhảy xuống biển tử tiết.
Đồn phía nam dải cát Thai Dương vẫn tiếp tục bắn ra tàu giặc. Tiếng đại bác và súng cầm tay ở các đồn Hạp Châu, Cồn Sơn, Hy Du, Lộ Châu, và một đồn đang xây dựng dở dang là Cồn Tè, vẫn chưa nao núng trước các chiến thuyền Atlante, Bayard, Drace, Cateau Renaud, Vipère và Lynx (51)…
Đêm đến, Pháp chia quân xuống thuyền nhỏ bằng gỗ sam, vốn để sẵn bên mạn hoặc trong khoang tàu lớn, chèo luồn vào phía sau dải cát Thai Dương thượng, Thai Dương hạ, quyết đánh úp các đồn của quân ta. Đạo quân do Trương Văn Đễ chỉ huy phản công, nhưng bị kém thế, phải rút chạy. Quân Pháp lại tấn công dữ dội, bằng đại bác và quân đánh bộ. Kho đạn trên đồn Hạp Châu lại bị nổ (51)!
Các tướng Lê Sỹ, Lê Chuẩn, Lâm Hoành (người Quảng Trị) và Nguyễn Trung đều tử trận. Quân ta bị vỡ (55). Thành trì tại Thuận An hoàn toàn thất thủ.
“Vua [Hiệp Hoà đã thật sự chủ “hoà”] nghe tin báo, lập tức sai thượng thư Bộ Lại là Nguyễn Trọng Hợp đến ngay thành Trấn Hải bàn hoà; lại [ra] sắc [dụ] cho các đồn sở từ Lộ Châu trở lên [gồm 13 đồn] đều phải canh giữ phòng thủ cho nghiêm. Nếu tàu nước ấy có đến đồn nào, tức phải treo cờ trắng [:đầu hàng], không được bắn khiêu khích.
Lúc bấy giờ, [thành luỹ] tỉnh cũ, tỉnh mới ở Hải Dương cũng bị mất, [nay mới] chợt báo tin đến, cho nên việc nghị “hoà” càng quyết định” (55)
.
Trần Tiễn Thành liền có vai trò của ông ta!
“Đúng vào lúc đó, quân đội của đô đốc Courbet đổ bộ ở Thuận An (tháng 08.1883). Trần Tiễn Thành được vời về triều để thảo luận về điều kiện nghị hoà [“”] và được giao nhiệm vụ đi yêu cầu giám mục Caspar xin nhà cầm quyền Pháp đình chiến” (56) .
Giám mục Maria Anton Louis Caspar Lộc, sinh ngày 23.03.1841 tại Obernai, vùng hạ sông Rhin, tại Pháp. Y đã từng có mặt tại Sài Gòn từ tháng hai 1865, với trách nhiệm “cha giáo” Chủng viện Lái Thiêu, rồi làm giám đốc trường đào tạo thầy giảng.
Caspar được tấn phong giám mục vào ngày 24.08.1880. Sau đó ít ngày, đầu tháng chín, y lên đường ra Huế (57).
Đêm ấy, Nguyễn Trọng Hợp cùng với cố đạo Pháp Caspar (vốn thường trú tại khu vực nhà thờ Kim Long, Huế), đi trên chiếc thuyền, treo cờ trắng đầu hàng nhục nhã, có viết chữ Âu (58): “Miễn chiến”! Để giặc Pháp khỏi bắn vào thuyền vì bóng đêm khoả lấp, không trông thấy rõ cờ trắng đầu hàng, Nguyễn Trọng Hợp sai quân lính liên tục đốt lửa trên thuyền để soi chiếu ánh sáng vào lá cờ trắng ấy (58).
“Khâm sai Bắc Kì toàn quyền đại thần của nước Pháp là Hà A Mang [Harmand] cũng đưa thư đến bàn hoà” (59) .
Mặc dù “hoà” ước mới gồm hai mươi bảy khoản chưa kí kết, phía Harmand, Courbet, De Champeaux đã yêu sách tức khắc:
+++ Triệt hạ ngay các đồn phòng thủ từ cửa Thuận lên đến kinh thành, tất cả là 12 (hoặc 13) đồn luỹ.
+++ Triệt bỏ những bãi chông cắm ở cửa sông.
+++ Trả lại cho Pháp hai chiếc tàu mà Pháp đã trao cho triều Tự Đức hồi kí kết “hoà” ước Giáp tuất 1874 và cả chiếc tàu Scorpion, bấy giờ quân Đại Nam đã chiếm được của Françis Garnier (1873) (60).
Nguyễn Trọng Hợp đồng thuận!
“Vua [Hiệp Hoà] sai triệu gia hiệp biện đại học sĩ hưu trí là Trần Đình Túc ([quê tại Quảng Trị], ở xã Bàn Môn, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên), cho lãnh thượng thư Bộ Lễ sung chức toàn quyền đại thần; [đồng thời sai phái] thượng thư Bộ Lại, [nay vừa mới] sung Cơ mật viện đại thần là Nguyễn Trọng Hợp, làm phó, đến Sứ quán [Pháp] bàn định “hoà” ước” (61). Ngoài ra, tham biện Nội các Hoàng Hữu Thường còn được bổ sung làm tham biện định “hoà” ước mới, chuyên lo việc văn thư. Về sau, “có nhiều điều khoản phải bàn lại, do [Nguyễn] Trọng Hợp một mình làm việc, [còn Trần] Đình Túc cho về hưu trí như cũ” (62) .
Đến như Trần Đình Túc, một viên đại quan vốn chủ “hòa”, cũng nhận thấy không kham chịu nổi “hòa” ước mới (Harmand – Trần Đình Túc), nhất là sau khi kí, Harmand còn lấn bức thêm.
Lúc đó, nghe tin thành cũ, thành mới Hải Dương thất thủ, lại thành Trấn Hải tại Thuận An cũng không giữ được, bị vỡ, quân tan, sinh viên Quốc tử giám liền tình nguyện đi đánh giặc. Quan phụ trách giảng dạy do Nguyễn Liên dẫn đầu đem ý chí quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh của sinh viên tâu trình lên vua (63). Vua Hiệp Hoà bảo với giọng điệu sĩ diện hão mặc dù trong thâm tâm chỉ mong một việc đầu hàng, chịu cho giặc “bảo hộ”: “Quan cùng các học trò ở Giám muốn ném bút đi đánh giặc, rõ có lòng siêng việc vua, giận quân thù, nhưng nay chúng đã xin hoà, việc đã được bớt, bọn ngươi cứ học tập như cũ” (63)!!! Trong lúc cả nước đau đớn, tủi nhục, Hiệp Hoà lại thiên vị, “thăng cho viên ở Anh Danh là Lê Văn Phú làm quản cơ. [Lê] Văn Phú là thân thuộc phi tần nhà vua, cho nên cho thăng [chức], nhưng cho ở nha, chiểu hàm cho ăn lương” (41)!!!
Riêng đoàn quân đồn Hoà Duân (Hoà Quân), gồm khoảng bảy trăm viên lính, vốn do tham biện Ông Ích Khiêm chỉ huy, khi rút quân lên kinh thành Huế, đến bến đò Nam Phố, tiếng trống vẫn chưa thôi (64)! Đó là tiếng trống phá phách, bỡn cợt, chán chê, bất mãn, ê chề, giận dỗi… Đúng là tướng nào quân ấy! Ông phải đổi sang làm biện lí Bộ Lễ, giao quân lại cho tướng quân Tôn Thất Thuyết quản lí (64).
Tất cả hệ thống đồn từ cửa biển Thuận An lên dọc tuyến sông Hương đều được sắc dụ của Hiệp Hoà, buộc rút hết biền binh, kể cả các khẩu đại pháo, cũng bị chở đi chỗ khác (65). Cửa kinh đô bao nhiêu năm xây dựng hệ thống phòng thủ đến nay hoàn toàn bị buộc phải bỏ ngỏ! Triều đình Hiệp Hoà đã thảm bại, cam chịu đầu hàng một cách nhục nhã!
“Hoà” ước Quý mùi 1883 là một nỗi đau xót, nhục nhã nhất trong các “hoà” ước, thừa nhận sự “bảo hộ” với chế độ công sứ của Pháp bên cạnh quan tỉnh của ta ở Bắc Kì và ở cả ba tỉnh Nam Đàng Ngoài Thanh – Nghệ – Tĩnh, lại mất đứt thêm một tỉnh khác ở phía nam (Bình Thuận bị sáp nhập vào Nam Kì, vốn là thuộc địa Pháp) (66). “Hoà” ước Quý mùi 1883 còn quy định, triều đình Đại Nam có quyền hạn rộng hơn một ít trên các tỉnh còn lại, từ Khánh Hoà đến Quảng Bình, nhưng triều đình vẫn lệ thuộc vào tổng trú sứ Pháp tại Huế hầu như về mọi mặt (66)!
Chưa bao giờ hai đại thần Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết đau xót hơn! Thế là chiến thuật lấy tấn công làm phòng thủ, nói rõ hơn là quyết tấn công các sào huyệt Pháp tại Bắc Kì để phòng thủ kinh đô Huế, đã thất bại, mặc dù hai đại thần chủ chiến của Viện Cơ mật đã biết trước ý đồ của thực dân Pháp, chúng sẽ tấn kích cửa biển Thuận An để uy hiếp, buộc triều đình kí “hoà” ước mới!
Đến khi Thuận An thất thủ, Trần Đình Túc và Nguyễn Trọng Hợp đã phải kí “Hoà” ước Quý mùi 1883 gồm hai mươi bảy điều khoản với Harmand tại Sứ quán Pháp bên bờ sông Hương, tin Hải Dương thất thủ lại ập vào, kế đến mới là tin thắng trận ở phủ Hoài và huyện Đan Phượng được đưa tới kinh đô.
Vua Hiệp Hoà nghe tin thắng trận đó, “có vẻ buồn, nói rằng: “Lang sói đương nhông nháo, bắt làm gì đám cầy cáo”, xem tờ tâu cũng không biết là mừng” (67). Nhà vua giao tờ tâu báo tiệp “cho Viện Cơ mật và Bộ Binh khu xử. Quan ở Viện, Bộ tâu rằng: “Quân thứ ấy có thắng trận như thế, cố nhiên phải khen thưởng, nhưng nay tình thế đã khác, sẽ đợi nghĩ định sau. Vua nghe theo” (67) . Lúc này, trong các quan ở Viện Cơ mật và Bộ Binh, kẻ lại chiếm ưu thế chính là Trần Tiễn Thành, và bên cạnh ông ta, còn có một kẻ chủ “hoà” khác, ấy là thượng thư Bộ Lại Nguyễn Trọng Hợp, người mới được Hiệp Hoà bổ sung vào Viện Cơ mật (61)!

5

“HOÀ” ƯỚC QUÝ MÙI 1883 (68)

“Giữa những người kí tên sau đây:
Một bên là J. Harmand, tổng uỷ, (đại diện ngoại giao cho nước Pháp cộng hoà (*)), nhân danh nước Pháp;
Một bên là hiệp biện đại học sĩ Trần Đình Túc (trưởng đoàn ngoại giao) và Lại bộ thượng thư Nguyễn Trọng Hợp (phó đoàn), nhân danh triều đình nước Đại Nam;
Đã cùng nhau thoả thuận như sau:
+ Điều khoản I: Nước Nam thừa nhận và chịu sự bảo hộ của nước Pháp trong các mối quan hệ về phương diện pháp luật, ngoại giao châu Âu, nghĩa là nước Pháp sẽ chủ trì mọi việc giao thiệp của nước Nam với tất cả các nước khác, bao gồm cả nước Tàu. Triều đình nước Nam sẽ chỉ giao thiệp về ngoại giao với các nước nói trên qua sự môi giới của nước Pháp mà thôi.
+ Điều khoản II: Tỉnh Bình Thuận sáp nhập vào xứ Nam Kì của Pháp.
+ Điều khoản III: Một đội binh Pháp chiếm đóng thường xuyên dãy núi đèo Ngang… [và] từ dãy núi này chạy ta đến mũi đất Vũng Chùa; binh Pháp cũng đóng các đồn Thuận An và các đồn ở cửa sông Huế. Các đồn này sẽ được xây dựng lại tuỳ theo ý muốn cuả các nhà cầm quyền Pháp.
+ Điều khoản IV: Triều đình nước Nam sẽ gọi về ngay các đạo quân đã phái ra Bắc Kì để thực thi hòa bình.
+ Điều khoản V: Triều đình nước Nam sẽ ra lệnh cho quan lại ở Bắc Kì trở lại lị sở, bổ nhiệm các quan lại mới để điền vào những nơi khuyết, và sẽ lâm thời công nhận những sự bổ nhiệm của nhà cầm quyền Pháp sau khi đã có sự thoả hiệp của đôi bên.
+ Điều khoản VI: Quan lại các tỉnh từ đường biên phía bắc tỉnh Bình Thuận ra đến đường biên Bắc Kì, lấy đèo Ngang làm giới hạn, sẽ tiếp tục do triều đình cai trị như xưa, không có bất cứ một sự kiểm soát nào của nước Pháp, trừ những công việc thuộc về thương chính hay công chính, và nói chung là những công việc cần có một sự chủ trương duy nhất và khả năng của các nhân viên kĩ thuật Âu châu.
+ Điều khoản VII: Triều đình nước Nam sẽ tuyên bố mở ra cho thương mại châu Âu, ngoài cửa biển Quy Nhơn, còn có các cửa biển Đà Nẵng và Xuân Đài (Phú Yên). Sau này, sẽ thảo luận xem có nên mở thêm các cửa biển khác nữa không, để có lợi cho cả hai nước; và cũng sẽ định giới hạn cho các khu nhượng địa của Pháp ở những cửa biển đã mở. Nước Pháp sẽ đặt ở đấy những nhân viên dưới quyền trú sứ Pháp tại Huế…
+ Điều khoản VIII: Nước Pháp có thể dựng một hải đăng ở mũi đất Varella hoặc ở mũi đất Padaran hay Poulo Cécir, tuỳ theo lời phúc bẩm của các sĩ quan và kĩ sư Pháp.
+ Điều khoản IX: Sau khi đôi bên thoả hiệp, và phí tổn chịu chung, chính phủ nước Nam sẽ tu sửa lại con đường lớn từ Hà Nội đến Sài Gòn, quản lí sao cho tốt để xe cộ đi lại được. Nước Pháp sẽ cung cấp những kĩ sư để phụ trách những công việc như cầu cống, đường hầm.
+ Điều khoản X: Một đường dây điện báo sẽ đặt trên con đường lớn này, rồi do nhân viên của nước Pháp phụ trách. Một phần thuế thu được sẽ giao cho chính phủ nước Nam, vì đã nhượng đất đai để làm các trạm điện báo.
+ Điều khoản XI: Ở Huế sẽ có một trú sứ là một vị quan cao cấp. Trú sứ không can thiệp vào những công việc nội trị của địa phương Huế, nhưng sẽ là người đại diện chính phủ bảo hộ, đặt dưới quyền kiểm tra của tổng uỷ viên chính phủ [nước] Pháp cộng hoà; vị này sẽ chủ trì những công việc ngoại giao của vương quốc An Nam, nhưng có thể sẽ uỷ quyền toàn bộ hoặc một phần quyền bính cho trú sứ ở Huế.
Trú sứ Pháp tại Huế sẽ được quyền một mình vào diện kiến vua nước Nam, nhà vua không thể từ chối không tiếp, nếu không có lí do chính đáng.
+ Điều khoản XII: Ở Bắc Kì sẽ có một trú sứ ở Hà Nội, một ở Hải Phòng, một ở các thành phố duyên hải sẽ được thiết lập sau, và một tại tỉnh lị mỗi tỉnh lớn. Ngay sau khi thấy có nhu cầu tại các tỉnh lị ở các tỉnh nhỏ, cũng sẽ đặt những viên chức người Pháp thuộc quyền quan trú sứ tỉnh lớn, mà tỉnh nhỏ ấy phụ thuộc theo khu vực hành chính trong xứ.
+ Điều khoản XIII: Các quan trú sứ hoặc phó sứ sẽ có những người giúp việc và những người cộng tác cần thiết và được bảo vệ bởi một toán lính Pháp hoặc bản xứ đủ cho họ được tuyệt đối an toàn.
+ Điều khoản XIV: Các quan trú sứ sẽ tránh không can thiệp sâu vào công việc nội trị các tỉnh. Các quan lại bản xứ sẽ tiếp tục cai trị và điều hành dưới quyền kiểm soát các quan trú sứ, nhưng họ sẽ có thể bị thay thế bởi người khác theo yêu cầu của các nhà cầm quyền Pháp nếu họ tỏ ra có điều không tốt với quan Pháp.
+ Điều khoản XV: Các quan lại, viên chức Pháp thuộc các công sở như bưu điện, công khố, thương chính, công chính, giáo dục Pháp, nếu có tư trình gì với nhà cầm quyền nước Nam thì sẽ chỉ do các quan trú sứ chuyển đạt.
+ Điều khoản XVI: Các quan trú sứ xét xử các án kiện về dân sự và thương mại của người châu Âu tranh chấp với người bản xứ, của người bản xứ tranh chấp với người các nước châu Á muốn hưởng sự bảo hộ của người Pháp. Nếu không đồng ý với các án xử của các quan trú sứ thì khiếu nại ở Sài Gòn.
+ Điều khoản XVII: Các viên trú sứ sẽ kiểm soát việc trị an ở các đô thị, và quyền kiểm soát của họ đối với các quan chức bản xứ sẽ mở rộng ra theo sự phát triển của các đô thị đó.
+ Điều khoản XVIII: Các viên trú sứ với sự giúp đỡ của quan bố chánh, sẽ tập trung trong tay việc thuế má mà họ kiểm soát việc thu chi.
+ Điều khoản XIX: Việc thương chính được sắp đặt lại sẽ được hoàn toàn giao cho các quan cai trị Pháp. Chỉ có các trạm thuế cửa biển và [trạm thuế] đường biên giới sẽ được đặt khắp các nơi cần thiết. Về ngạch thương chính do các quan binh ở Bắc Kì đặt ra thì không được kêu nài gì cả.
+ Điều khoản XX: Công dân hay dân thuộc quốc tịch Pháp sẽ được hưởng tự do hoàn toàn về nhân thân và tài sản của họ trong toàn xứ Bắc Kì và tại các cửa biển khai thương ở Trung Kì. Ở Bắc Kì và trong giới hạn các cửa biển khai thương ở xứ Trung Kì, họ sẽ có thể tự do đi lại, cư trú và sở hữu tài sản. Tất cả những người ngoại quốc xin được hưởng sự bảo hộ của Pháp thường xuyên hoặc tạm thời cũng sẽ được như vậy.
+ Điều khoản XXI: Những người vì mục đích khoa học hay vì mục đích nào khác mà muốn đi du lịch trong nước Nam sẽ chỉ được phép qua môi giới của trú sứ Pháp ở Huế, Pháp suý ở Nam Kì hay là tổng uỷ viên chính phủ Pháp ở Bắc Kì. Các vị này sẽ cấp cho họ những giấy thông hành, rồi họ trình triều đình An Nam phê chiếu.
+ Điều khoản XXII: Nước Pháp sẽ đóng những đồn binh dọc theo sông Hồng khi xét thấy sự đề phòng đó là cần thiết để bảo đảm cho sự tự do giao thông trên sông. Nước Pháp cũng sẽ có thể lập những đồn binh vĩnh viễn ở khắp những nơi mà xét thấy có lợi.
+ Điều khoản XXIII: Từ nay về sau, nước Pháp cam đoan bảo đảm sự vẹn toàn của các xứ của nhà vua An Nam, bảo vệ nhà vua chống lại mọi cuộc ngoại xâm từ bên ngoài, hay các cuộc nội loạn và bênh vực những điều yêu sách chính đáng của ngài với người nước ngoài.
Nước Pháp một mình cam đoan đánh đuổi ra khỏi Bắc Kì những đội quân được biết tới dưới cái tên “Quân Cờ đen” và bảo đảm bằng những phương sách của mình sự trị an và tự do buôn bán trên sông Hồng.
Vua nước Nam sẽ tiếp tục cai trị các xứ của mình như trước, trừ những điều hạn chế do hiệp ước này quy định.
+ Điều khoản XXIV: Nước Pháp sẽ cung cấp cho vua nước Nam tất cả những người huấn luyện, kĩ sư, bác học, sĩ quan v.v… mà nhà vua sẽ cần dùng.
+ Điều khoản XXV: Nước Pháp sẽ coi mọi người An Nam, ở mọi nơi, ở trong cũng như ở ngoài nước, như những người được bảo hộ đích thực của mình.
+ Điều khoản XXVI: Những món nợ hiện nay của nước Nam đối với nước Pháp sẽ được coi như đã thanh toán, do việc cắt nhượng tỉnh Bình Thuận.
+ Điều khoản XXVII: Sẽ có những cuộc bàn bạc để quyết định số tiền giao cho triều đình nước Nam trong số quan thuế cước phí điện tín v.v… trong nước, số quan thuế ở Bắc Kì và thuế vế các cuộc chuyên mại độc quyền, như cơ sở kĩ nghệ sẽ được phép lập ở Bắc Kì. Món tiền trích giao ở số thuế thu đó không được dưới hai triệu quan tiền Pháp (franc).
Đồng bạc Mễ Tây Cơ (Mexique) và các tiền tệ bằng bạc của xứ Nam Kì thuộc Pháp sẽ cùng với các tiền tệ của nước Nam đồng thời cưỡng bách lưu hành trên khắp vương quốc.
Bản hiệp ước này sẽ được trình lên giám quốc nước Pháp cộng hoà và đức hoàng đế nước Nam chuẩn y. Việc xác nhận và hỗ giao sẽ được trao đổi càng sớm càng tốt. Nước Pháp và nước Nam bổ nhiệm các vị đại diện ngoại giao, sẽ họp tại Huế để xem xét và định ra mọi chi tiết. Các vị đại diện ngoại giao đó sẽ nghiên cứu trong một cuộc họp chế độ thương mại có lợi nhất cho hai nước, cũng như quy chế quan thuế lấy điều khoản XIX trên đây làm căn bản, và những vấn đề thuộc về độc quyền ở Bắc Kì, về các nhượng địa để khai mỏ, về chuyên chở tàu thuyền, về ruộng muối và các ngành công nghiệp…”.

“Hoà” ước này được kí kết vào ngày hai mươi ba (23), tháng bảy (07), năm Tự Đức thứ ba mươi sáu (36) (vẫn còn thuộc niên hiệu tiên đế), Quý mùi (25.08.1883)
.



Hết tệp 7 (phân đoạn 1, truyện kí thứ 10)

Khởi viết truyện kí thứ mười này vào lúc khoảng 07 giờ
ngày 01.01.2003.
Viết đến dòng chữ này lúc 18 giờ 05 phút,
ngày mùng 04.01.2003 (02.12 Nh. ngọ HB.3)
tại thành phố Hồ Chí Minh
.

TRẦN XUÂN AN


(27) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 219.

(28) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 214; : GS. Trần Văn Giàu, Chống xâm lăng (CXL.), Nxb. Tp.HCM. tái bản, 2001, tr. 421 – 426.

(29) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 216 – 217: “Mùa thu, tháng bảy, ban rõ điển lễ tấn tôn Khiêm hoàng hậu [Vũ thị, vợ vua Tự Đức] và hoàng thái phi [Trương thị, mẹ vua Hiệp Hoà]… […] … Vua [Hiệp Hoà] bèn sắc sai các quan bàn kĩ thế nào cho hợp lễ chế và đem bàn thêm nghi chế tấn tôn lệnh từ [:mẹ của vua Hiệp Hoà]. Đến nay, Tôn nhân, hoàng thân, đình thần xem xét điển lễ cũ [đời Tống Tấn vương Quang Nghĩa, Diên An quận vương Dong, Triết Tông với cách lập hoàng thái hậu, hoàng thái phi… ]; và xét cả điển trước của bản triều [đời Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị về việc tấn tôn hậu, phi, thái hậu, thái phi]; châm chước nghĩ định Trung phi [Vũ thị, vợ vua Tự Đức], xin lấy mĩ tự tên cung, tôn làm Khiêm hoàng hậu [:hoàng hậu của Khiêm lăng (lăng Tự Đức)], tôn lệnh từ thì tôn làm hoàng thái phi… […] … Vua [Hiệp Hoà] lại sai Tuy Lý vương cùng Nội các, Sử quán, Quốc tử [giám] hội đồng xét lại cho kĩ, cho là các lẽ bàn định ở trên, so với tình lí, đều đã thoả hợp… […] … Vua [Hiệp Hoà] đem tập tâu ấy tâu lên Từ Dụ thái hoàng thái hậu, bèn cho thi hành”.

(30) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 219.

(31) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 220 – 221.

(32) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 222.

(33) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 222.

(34) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 223.

(35) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 223.

(36) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 161 – 162.

(37) GS. Trần Văn Giàu, Chống xâm lăng (CXL.), Nxb. Tp.HCM. tái bản, 2001, tr. 425. Về cuốn sách này, chúng tôi đã phê phán ở các chú thích trước, và phê phán cụ thể hơn ở một cuốn sách của tôi. Xin xem: Trần Xuân An, Nguyễn Văn Tường, “những người trung nghĩa từ xưa, tưởng không hơn được”, khảo luận và phê bình sử học, sắp xuất bản (2002).

(38) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 221.

(39) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 221.

(40) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 222.

(41) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 225, 239.

(42) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 219.

(43) CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, 2001, tr. 386, 388, 425. +++ “Còn ở tại Huế, sứ Pháp là Rayna [Rheinart] thuyết khách cho đến đỗi triều đình đã nhận về nguyên tắc là cần làm thêm một bản phụ lục cho hoà ước 1874, trong phụ lục này sẽ ghi chữ “bảo hộ” vào. Sở dĩ triều đình chưa kí với Pháp một bản hoà ước mới là vì, trong thời gian ấy, quân đội nhà Thanh vào Việt Bắc và Lý Hồng Chương đã sai sứ Thanh [:Đường Đình Canh] đến tận Huế dưới danh nghĩa một đoàn thương mại” (nguyên văn của GS. Trần Văn Giàu, tr. 386). +++ Bộ trưởng Ngoại giao Pháp Duclerc gửi bộ trưởng Hải quân và Thuộc địa Pháp Jauréguiberry, ngày 26.09.1882: “Hồi đầu tháng bảy, chính phủ Nam Kì (Pháp) có lúc tưởng rằng đã có thể vượt qua những khó khăn hiện tại. Triều đình Huế, có một lúc có giận dữ vì ta lấy Hà Nội, nay đã có thái độ hoà nhượng hơn, và ta tin rằng họ có thể kí một hoà ước phụ thuộc cho hoà ước 1874 [Giáp tuất], cương quyết hơn và rõ ràng hơn, đặt nước An Nam dưới sự bảo hộ của ta, trong những điều kiện na ná với xứ Tunysie. Thình lình, một chuyển hướng xảy ra trong trí của những cố vấn vua Tự Đức, họ tuyệt đối không nhận những đề nghị của ta nữa. Cũng như ngài, tôi nghĩ rằng sở dĩ như thế là vì ảnh hưởng của Trung Quốc… Cho nên cũng như ngài, tôi đồng ý là chính phủ Pháp phải có một thái độ cương quyết và quyết định để phá những mưu mô có thể đem lại những kết quả tai hại. Vả lại, từ lúc cuộc viễn chinh này bắt đầu thì bản bộ [Ngoại giao Pháp] đã theo một đường lối giống hẳn như đường lối bây giờ” (dẫn theo, tr. 386). +++ “Ngoại giao giữa ta và Pháp như thế là đoạn tuyệt; nhưng theo chỉ thị của Paris, Harmand cũng đã tìm cách báo cho Tự Đức biết là Pháp nhất định sẽ đòi sửa đổi hoà ước 1874, lập hoà ước mới với 27 khoản, đòi lập hẳn “bảo hộ”, quyền ngoại giao, thương chính, thuế vụ và quyền quân sự sẽ hoàn toàn về tay Pháp” (nguyên văn của GS. Trần Văn Giàu, tr. 425).

(44) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 226; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, 2001, tr. 422 – 424.

(45) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 232 – 233.

(46) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 226.

(47) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 223.

(48) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 223.

(49) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 223.

(50) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 224.

(51) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 223; CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, 2001, tr. 430 – 433; Phan Trần Chúc, Vua Hàm Nghi (VHN.), Nxb. Chính Ký, Hà Nội, 1951, Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1995, tr. 23 – 24.

(52) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 224.

(53) Dẫn theo CXL., Nxb. Tp.HCM. tái bản, 2001, tr. 422.

(54) Phan Trần Chúc, Vua Hàm Nghi (VHN.), Nxb. Chính Ký, Hà Nội, 1951, Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1995, tr. 24. Về cuốn sách này, chúng tôi đã phê phán ở các chú thích trước.

(55) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 224.

(56) Nguyễn Đắc Xuân (biên soạn), Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành (PCĐT. Tr.TTh.), (trong đó có in lại bài viết của Đào Duy Anh trên Tập san Những người bạn cố đô Huế [Bulletin des amis du vieux Huế (BAVH.), linh mục Pháp Cadière làm chủ bút, số 4 – 6/ 1944]), Nxb. Thuận Hoá, 1992, tr. 71 – 72.

(57) Trần Quang Chu, Hành hương La Vang, sách in vi tính, tập 1, tr. 247 – 248, 282 – 283.

(58) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 224; Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam liệt truyện (ĐNLT.), bản dịch Viện Sử học, tập 4, Nxb. Thuận Hoá, 1993, tr. 125: “… quân Pháp trông xa không phân biệt được, bắn ra như mưa. [Nguyễn] Trọng Hợp bèn sai người thông dịch xé chăn vải trắng viết chữ “Âu”, đốt vội hoá vật trong thuyền để tỏ bảo. Quân Pháp, từ trong lửa sáng phảng phất, thấy hiệu cờ, tiếng pháo bèn thôi; rồi ông Hợp lên tàu thượng suý, cùng với viên đô thống Pháp ra mắt… […] … Bèn đưa Hợp làm phó toàn quyền cùng với chánh toàn quyền là Trần Đình Túc đều tới Sứ quán giảng định hoà ước…” (sđd., tr. 125).

(59) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 224 – 225.

(60) VHN., Nxb. Chính Ký, Hà Nội, 1951, Nxb. Thuận Hoá tái bản, 1995, sđd., tr. 32.

(61) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 224 – 225.

(62) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 225.

(63) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 225.

(64) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 225.

(65) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 225.

(66) Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược (VNSL.), Nxb. Tân Việt, bản 1964, tr. 534 – 535; xem thêm “hoà” ước 1883.

(67) ĐNTL.CB., tập 35, 1976, sđd., tr. 225 – 226.

(68) Theo một số tư liệu trong “Phạm Thận Duật, sự nghiệp văn hóa, sứ mệnh cần vương”, Hội KHLS.VN xb., 1997, tr. 356 – 361. Đây là một cuốn sách có nhiều chi tiết xuyên tạc, bịa đặt đầy ác ý (trong bài của PGS. Chương Thâu) với những cái gọi là tư liệu, không rõ xuất xứ, không được công chứng, chưa hề giám định, do đó, không thể có giá trị sử học. Xin xem thêm chú thích (73) ở truyện kí thứ chín của bộ truyện - sử kí - khảo cứu tư liệu lịch sử này.

Chú thích xong lúc 11 giờ 17 phút,
ngày 15.01.2003
(15.01 Q. mùi, năm thứ hai công nguyên Hòa Bình [:HB.3])
.

TRẦN XUÂN AN

Cước chú của bản “HOÀ” ƯỚC QUÝ MÙI 1883:

(*) La République française (chữ française không viết hoa!). Đúng ra phải dịch theo cấu trúc ngữ pháp tiếng Việt đồng thời đúng với ngữ nghĩa là: “nước Pháp cộng hoà” (nước Pháp theo thể chế chính trị cộng hoà), cũng tương tự như “nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”. Bởi quen hiểu và dịch sát theo nghĩa nước cộng hoà có tên là Pháp hoặc nước cộng hoà cuả người Pháp, nên phải viết hoa cả chữ Nước và chữ Cộng: “Nước Cộng hoà Pháp”. Như vậy sẽ không tương xứng với ba chữ “nước Đại Nam” (chữ nước ở trường hợp này không viết hoa)! “Nước Đại Nam” phải đổi thành cụm từ “Vương quốc Đại Nam” (chữ “Vương” viết hoa, chứ không phải chữ “quốc”!). Xin cáo lỗi với người dịch văn kiện này về một trường hợp thay đổi từ ngữ như trên.


Hết tệp 8
(phân đoạn 2)
Xin xem tiếp tệp 9
(phân đoạn 3), truyện kí 10
thuộc TẬP III bộ sách “PCĐT. NVT.”.